ẢNH HƯỞNG
CỦA TƯ TƯỞNG DỊCH HỌC TRONG TRANH DÂN GIAN ĐÔNG HỒ
I – MỞ ĐẦU
Dịch học là một hệ thống tư tưởng rộng
lớn, giá trị của Dịch học là ở “Học” chứ không phải ở “Thuật”. Bản thân Dịch
học manh nha đã bao gồm hai loại “Học” và “Thuật”. Thuật chính là phép “chiêm
bốc” để đoán định tương lai, số mệnh, còn học lại đi vào nghiên cứu, khảo chứng
tư tưởng của Dịch nhiều hơn. Từ trước tới nay, khi nghiên cứu Dịch học, các học
giả thường theo hai cách nghiên cứu truyền thống. Loại thứ nhất chuyên tâm vào
việc chú giải văn tự, ngữ nghĩa trong Kinh truyện. Loại thứ hai thì chú trọng
vào việc lý giải đạo lý hàm chứa trong Dịch học, với mong muốn làm rõ quan điểm
Dịch học của mình, đồng thời đưa ra một hệ thống lý luận đồng bộ. Những tác
phẩm Dịch học nổi tiếng từ cổ chí kim đều không nằm ngoài hai phương pháp
nghiên cứu trên.
Nhưng
ngày nay, khi nghiên cứu Kinh Dịch, cả hai hướng nghiên cứu trên đều rất đáng tham
khảo nhưng đó không còn là hai phương pháp bất biến nữa. Vương Đức Hữu Phó tổng
biên tập nhà xuất bản Đại Bách khoa toàn thư Trung Quốc có viết “ Ngoài hai phương pháp truyền thống trên
ra, còn cần phải sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học mới, tức là coi bộ
sách cổ Chu Dịch là một quá trình phát triển của lịch sử, cần phải đặt ba bộ
phận Kinh, Truyện, Học vào từng bối cảnh lịch sử hình thành chúng để tiến hành phân
tích, mổ xẻ, thảo luận nghiên cứu tiến trình phát triển tư duy lý luận của
chúng một cách lôgíc, tổng kết quy luật phát triển của tư duy, tổng kết phương
thức tư duy quan sát và xử lý sự việc, qua đó rút ra bài học kinh nghiệm. Loại
phương pháp này vừa mang tính lịch sử, vừa mang tính phân tích, mà hai loại
phương pháp trên không thể thay thế”.
Chính vì lý do đó, mà trong những năm
gần đây, tư tưởng Dịch học đã được soi rọi rộng hơn trong nhiều lĩnh vực trên
cơ sở “tiến hành phân tích, mổ xẻ, thảo
luận và nghiên cứu”. Vì thế, trong bài viết này, người viết cũng xin mạnh dạn
cùng bạn đọc tìm hiểu “Tư tưởng Dịch học trong tranh dân gian Đông
Hồ”, trên cơ sở phân tích qua từng bức tranh cụ thể. Mong rằng, độc giả
cũng lượng thứ cho người viết khi không giới thuyết qua về Dịch học là gì? Hệ
thống tư tưởng của nó ra sao? Bởi theo cách hiểu nông cạn của người viết, thì
để thấy được sự mới lạ và hấp dẫn của bài viết ngắn này thì người đọc cũng đã
phần nào hiểu khái lược nhất về Dịch học cũng như quan điểm lý luận của nó,
trước khi tìm hiểu về tranh Đông Hồ.
Tranh
Đông Hồ được sáng tạo từ bàn tay nghệ nhân làng Đông Hồ, làng Đông Hồ nằm ven
sông Đuống, cách Hà Nội chừng 40 km về phía đông, xưa làng có tên gọi là Đông
Mại (hay làng Mái) thuộc tổng Hồ, huyện Siêu Loại, trấn Kinh Bắc (nay là làng
Song Hồ, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh). Đông Hồ có truyền thống vẽ tranh từ lâu
đời. Theo tấm bia "Đông Hồ Tự Bi kí", khắc năm Chính Hòa thứ nhất (1680),
ta thấy trên trán bia có chạm một đôi chuột đang giã gạo nằm trong hình mặt
nguyệt. Vì chuột cũng là đề tài quen thuộc trong nghệ thuật dân gian, nên ít
nhiều ta cũng có căn cứ để suy rằng Đông Hồ đã từng có nghề vẽ tranh tối thiểu
cũng có từ ngày đó.
Trong
các dòng tranh dân gian, tranh Đông hồ khá gần gũi với đại đa số dân chúng Việt
Nam,
nhắc tới dòng tranh này hầu như ai cũng biết. Tranh gần gũi vì nó gắn với làng
quê, ngõ xóm, với cuộc sống lao động của người nông dân bình dị, chất phác và
hình ảnh của nó đã đi vào thơ, văn. Một điều đặc biệt hơn nữa là trong tranh
làng Hồ lại hàm chứa nhiều tư tưởng bác học khác, một trong những tư tưởng mà
ta có thể thấy khá rõ trong dòng tranh này, chính là tư tưởng Dịch học. Một tư
tưởng có từ hàng ngàn năm trước và được thể hiện khá sống động trong nhiều bức
tranh của nghệ nhân dân gian làng Đông Hồ.
II - ẢNH
HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG DỊCH HỌC TRONG TRANH DÂN GIAN ĐÔNG HỒ
A - ẢNH HƯỞNG CỦA HỌC THUYẾT ÂM – DƯƠNG TRONG
TRANH DÂN GIAN ĐÔNG HỒ
Người Á Đông từ ngàn xưa quan niệm, vạn
vật trong vũ trụ đều do một âm - một dương kết hợp lại mà thành. Vì thế, câu nói:一陰一陽之謂道 “Nhất âm,
nhất dương chi vị đạo” ( Một âm, một dương gọi là đạo) đã dùng để khái quát
tất thảy các quy luật của tự nhiên và xã hội. Đây chính là thành quả mang tính
cô đọng của triết học Đông phương. Học thuyết nhất âm - nhất dương xuất hiện
nhiều trong Dịch truyện và Hệ từ. Ở Dịch kinh khái niệm âm dương không thể hiện
qua lời kinh mà được thể hiện bằng các vạch liền (dương), vạch đứt (âm) và khái
quát cụ thể bằng hình tượng Lưỡng nghi. Như vậy, hình tượng âm - dương đã được
phân định qua khái niệm Lưỡng nghi và nó trở thành nguyên tố cơ bản của học
thuyết này.
1
– ẢNH HƯỞNG TỪ HÌNH TƯỢNG LƯỠNG NGHI.
Âm
dương là một trong những học thuyết cơ bản nhất của Kinh Dịch, âm dương chính
là sự cân bằng trời đất. Thể hiện cụ thể nhất mà ta có thể nhận ra đó chính là
biểu tượng của Lưỡng nghi. Trong hệ Từ Chu Dịch có viết:易有太極,是生兩儀,兩儀生四象,四象生八卦,八卦定吉凶,吉凶生大業 “ Dịch hữu Thái Cực, thị sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ
tượng sinh Bát quái, Bát quái định cát hung, cát hung sinh đại nghiệp” (Dịch có Thái cực, Thái cực sinh Lưỡng
nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái, Bát quái định cát hung,
cát hung sinh nghiệp lớn).
Thái
cực chính là chỉ thế giới ở thể “hỗn mang chi sơ”, là khoảng vô tận không phân
biệt, Lưỡng nghi chính là hình thế phân cực chia cái thế giới hỗn mang đó thành
âm dương phân cực. Lưỡng nghi từ xưa đã được biến thể qua nhiều hình tượng và
mỗi một hình tượng lại mang một cách cảm, cách nghĩ trên những bình diện khác
nhau của các học giả. Như Lưỡng nghi của Lai Tri Đức, thể hiện âm dương giao hòa song
trùng
Hình
Lưỡng nghi của Chu Đôn Di thể hiện âm dương
giao hoà phân cực trong thể thống nhất.
Biểu
tượng Lưỡng nghi hiện đại mà hiện nay chúng ta thường thấy Đông y sử dụng làm
biểu tượng cho ngành của mình có phần đơn giản, và tương đối rõ nét trong việc
phân biệt âm dương, lấy âm dương bổ khuyết.
Đồ hình của Lai Tri Đức
Đồ hình của Chu Đôn Di
Đồ
hình Hiện đại
Ngược
lại, trong tranh dân gian Đông Hồ sự tiếp biến biểu tượng Lưỡng nghi hiện lên
tương đối rõ nét và thể hiện cụ thể bằng những nét vẽ mang tư tưởng mới thông
qua triết lý Dịch học.
Đồ hình trong
tranh dân gian Đông Hồ
Với
cách thức diễn tả biểu thức Lưỡng như vậy ta thấy, ở tranh dân gian Đông Hồ, sự
thể hiện biểu tượng Lưỡng nghi chủ yếu nhằm nhấn mạnh việc khởi nguồn cho âm
dương giao hòa, khởi nguồn cho sự sinh trưởng bắt đầu. Chính vì lẽ đó, trong dòng
tranh này, những bức vẽ mang hình tượng Lưỡng nghi thường là những bức tranh
chúc phúc ( con cháu đầy đàn), sự sinh sôi phát triển, sự mạnh khoẻ…
Chúng
ta hãy nhìn bức tranh “ Lợn đàn” sẽ rõ. Ở đây, biểu tượng Lưỡng nghi được dùng
bằng hai màu tương phản thể hiện âm dương giao hòa và một đàn lợn với những con
lợn to nhỏ thuộc năm hành ( Kim - Mộc - Thuỷ - Hoả - Thổ).
LỢN ĐÀN
Bức
tranh thứ hai chúng ta có thể kể đến là bức tranh “Lợn nái hay lợn ăn cây dáy”
cũng với những vòng xoáy Lưỡng nghi, thể hiện sự sinh sôi, phát triển.
LỢN ĂN CÂY
DÁY
Một
điều khá đặc biệt và đồng nhất với hệ tư tưởng Dịch học là việc tiếp nhận biểu
tượng Lưỡng nghi ở tranh dân gian Đông Hồ cũng nhằm mục đích nói về sự sinh
trưởng, phát triển theo kiểu “Lưỡng nghi
sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái…”. Điều đó có thể minh chứng qua việc, đại đa số vật
thuộc giống CÁI mới có biểu tượng Lưỡng nghi, ngoài ra không dùng Lưỡng nghi
trong các thuộc tính khác nhiều. Hơn nữa, qua hình tượng lợn cũng phần nào minh chứng cho cội nguồn của sự sinh trưởng. Điều
này được khẳng định hơn khi một lần nữa khoa học hiện đại minh chứng “Nơi nào có nước, nơi đó có sự sống”. Vì
thế, nước là yếu tố cơ bản nhất để hình thành nên sự sống và là nhân tố đầu tiên
cho sự phát triển sau này. Sách “ Hoàng
Đế nội kinh” thiên “ Kim quỷ chân
ngôn luận” viết: “ Bắc phương sắc đen thông với thận, thông
khiếu ở nhị âm, tàng tinh ở thận, bệnh phát sinh ở khê. Về vị là mặn thuộc về
thuỷ, thuộc về lục súc là lợn, thuộc
về ngũ cốc là đậu, thuộc về bốn mùa ứng với sao thần, thuộc về âm là vũ, thuộc
về số là sáu, thuộc về mùi là húc mục, do đó biết bệnh thường phát ở xương”.
Còn trong “Chu
Dịch tường giải” (Nguyễn Quốc Đoan, NXB VHTT 1998), phần tổng hợp về thuyết
quái có nói về quẻ Khảm “ Về động vật
thuộc lợn, cá, con vật sống trong
nước, con hồ ly, loài thủy tộc”
Chính
vì lẽ đó, biểu tượng Lưỡng nghi và hình tượng lợn ở trên, phần nào đã minh chứng
thêm cho hệ thức phát triển của Dịch học. Trong Hệ từ hạ truyện có nói: 生生之謂易 “Sinh sinh chi vị Dịch” (Không
ngừng sinh sôi gọi là Dịch). Vì vậy, ta thấy hình Lưỡng nghi trong tranh Đông
Hồ khá giống với vòng trường sinh thể hiện qua Hà đồ tự nhiên trong Dịch học.
Lưỡng nghi trên tranh Đông Hồ
Lưỡng nghi trong Hà Đồ tự nhiên
Bên
cạnh đó, ngoài việc cầu mong sự sinh sôi phát triển “con đống, cháu đàn”, người
nghệ nhân còn mong cầu sự mạnh khoẻ. Vì thế, biểu tượng Lưỡng nghi một lần nữa
xuất hiện trong bức tranh “Rước trống”. Việc sử dụng Lưỡng nghi như vậy cũng chính
là nhằm mục đích mong cầu sự mạnh khoẻ theo như dân gian quan niệm.
RƯỚC TRỐNG
Như
trên đã trình bày, đa số vật thuộc giống CÁI mới được áp dụng hệ thức Lưỡng
nghi. Nhưng nếu nhìn qua bức tranh “Rước trống”, nhiều người hẳn sẽ đặt câu hỏi
và so sánh hai hình tượng lợn và trống trong tranh rồi cho rằng hai
thuộc tính này chẳng liên quan gì với nhau. Điều đó cũng không lấy gì làm ngạc
nhiên cho người viết, chỉ có điều nếu độc giả lưu ý một chút thì sẽ hết hồ
nghi, bởi người Việt từ xưa vẫn thường gọi những chiếc trống lớn là trống CÁI.
Vì thế, Lưỡng nghi dùng trong việc thể hiện tư tưởng cầu chúc may mắn, mạnh khoẻ
cũng không vi phạm vào cách thể hiện ý tưởng mang tính Dịch học như trên đã trình
bày.
Một
điều hết sức đặc biệt nữa là Lưỡng nghi sinh Tứ tượng theo tư tưởng Dịch học luôn
được áp dụng một cách triệt để và sáng tạo. Chúng ta hãy chú ý và sẽ thấy,
trong mỗi bức tranh, trên mỗi vật thể thì biểu tượng mang tính Lưỡng nghi bao
giờ cũng đi đôi. Như vậy ta sẽ thấy công thức:
“2 âm +2dương
= 4âm dương”
Trong
tranh lợn thì: 2 âm + 2 dương = 4 âm dương
Trong
tranh trống cũng cùng hệ thức như vậy, duy chỉ có điều là âm dương trên mặt trống
không thống nhất mà được biến tấu theo hai hình thức khác nhau, nhưng màu sắc lại
thống nhất, thể hiện cùng một loại hành (đen thuộc âm - hồng thuộc dương). Giữa
mặt trống là Lưỡng nghi đen âm – hồng dương. Cả mặt trống thì, vành ngoài mặt
trống đen thuộc âm, vành trong mặt trống hồng thuộc dương. Bởi lý của Lưỡng
nghi là中貞外晦 “Trung trinh, ngoại hối” (Trong
trắng, ngoài đen). Như vậy, ta cũng sẽ có tổng âm dương trên mặt trống là:
2 âm + 2 dương = 4 âm dương
Như
thế, qua hình tượng Lưỡng nghi trong tranh dân gian Đông Hồ, phần nào đã thể hiện
được quan niệm về sự phát triển theo tư tưởng của Dịch học với công thức “Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát
quái, Bát quái sinh cát hung, cát hung định nghiệp lớn”.
2 – TÍNH
HÒA HỢP VÀ ĐỐI NGHỊCH CỦA ÂM DƯƠNG
Như
trên đã trình bày, biểu tượng Lưỡng nghi đã thể hiện được đặc tính của sự phát
triển và mang tính âm dương đăng đối khá rõ nét. Và có lẽ, tính đăng đối của âm
dương như thế cũng dễ nhìn nhận ra hơn cả. Nhưng đó không phải là sự thể hiện đặc
tính âm dương duy nhất trong dòng tranh này. Mà tính đối xứng thể hiện thuyết âm
dương ngũ hành đã xuất hiện trong phần lớn tranh của làng Đông Hồ. Điều đó, ta
có thể minh chứng và lý giải qua hàng loạt tranh cụ thể.
Trước
tiên, ta xét những bức tranh phân tầng để dễ nhận ra điều này. Sau đó ta đi vào
tìm hiểu những bức tranh không phân tầng và lý giải chúng cụ thể hơn.
Một
trong những bức tranh Đông Hồ phân tầng nổi tiếng vào loại bậc nhất mà ta có thể
kể đến là bức tranh “Đám cưới chuột”.
ĐÁM CƯỚI CHUỘT
Ở
trong bức tranh này, chúng ta thấy, chủ đề và đối tượng chính được đề cập đến ở
đây là “Chuột”. Vì thế, khi đi vào phân tích ta dễ nhận ra tầng trên bức tranh
có bốn con chuôt, tầng dưới có tám con chuột. Xếp theo tỉ lệ phân chia trên
dưới ta có được một biểu thức: trên một
con/ dưới hai con. Tức là trên lẻ, dưới chẵn mang tư tưởng số học của Dịch,
đó là số cơ và số ngẫu. Dịch truyện có viết: 陽 卦 多 陰, 陰 卦 多 陽,其 故 何 也? 陽 卦
奇,陰 卦 偶”“ Dương quái đa âm, âm quái
đa dương, kỳ cố hà dã? Dương quái cơ, âm quái ngẫu.” ( Trong quẻ
dương có nhiều âm, trong quẻ âm có nhiều dương, tại sao như vậy? Bởi quẻ dương
lẻ, quẻ âm chẵn”. Qua đây ta có thể thấy, bố cục trong tranh phân tầng của làng
Hồ khi âm dương xuất hiện bao giờ cũng theo cấu trúc “thượng dương – hạ âm” (
trên dương – dưới âm) và mang tính cát để thể hiện sự sinh trưởng.
Bên
cạnh đó, số cơ và số ngẫu trong Dịch học không chỉ biểu hiện qua tranh phân
tầng “Đám cưới chuột” mà biểu thức số học chẵn lẻ mang tính âm dương như thế còn
biểu hiện qua nhiều bức tranh khác, điển hình chúng ta có thể kể đến hai bức
tranh “Chơi cá” và “Chơi chim”.
CHƠI CÁ
CHƠI CHIM
Cả
hai bức tranh “Chơi cá” và “Chơi chim” ở trên, số cơ và số ngẫu được biểu hiện
rất cụ thể qua số lượng người và số lượng chim, cá. Ba đứa trẻ thuộc số lẻ, thể
hiện tính dương, mạnh. Bốn con chim và cá thuộc số chẵn, thể hiện tính âm, yếu.
Như thế tính mạnh đã chi phối được tính yếu, tính dương chi phối và điều chỉnh
được tính âm.
Quay
lại xét câu “Nhất âm, nhất dương chi vị
đạo”. Rõ ràng ta thấy quan điểm theo tư tưởng Dịch học chính là cách thức
thể hiện tính âm dương hài hòa trong một chỉnh thể bằng những con số đối lập
rất cụ thể.
Ngoài tranh phân tầng thì chúng ta có thể
thấy, tính âm dương cũng được biểu hiện rất rõ nét qua tranh không phân tầng.
Và tính âm dương trong các bức tranh không phân tầng như thế được thể hiện
phong phú hơn tranh phân tầng và số lượng của chúng cũng phong phú hơn rất
nhiều. Trước hết là cách thức thể hiện bằng hình tượng nam – nữ. Để thấy được
điều này, chúng ta hãy phân tích qua một vài bức tranh cụ thể. Bức tranh đầu
tiên ta có thể nhận ra cách thức biểu đạt âm – dương qua hình tượng nam nữ là
bức tranh “Hứng dừa”.
HỨNG DỪA
Trong
tranh “ Hứng dừa” thuộc tính âm – dương được biểu đạt bằng tính nam và tính nữ.
Trong quan niệm lễ nghi dân gian của người Việt, cổ nhân từng nói “Tả dương, hữu âm; tả nam, hữu nữ; tả bình,
hữu quả; tả chuông, hữu khánh”. Như vậy, con trai thể hiện cho tính dương,
con gái thể hiện cho tính âm. Vì vậy, trong bức tranh trên tính âm - dương được
thể hiện bằng phương pháp đối lập giữa hai thuộc tính, một đỏ đi với một xanh
hoặc một trắng, một lẻ đi với một chẵn ( qua số dừa bên tay trái và tay phải
người hái dừa), một đàn ông đi với một đàn bà, một bé gái đi với một bé trai.
Bức
tranh thứ hai thể hiện tính âm dương qua hình tượng nam – nữ như thế ta có thể
kể đến bức tranh “ Bịt mắt bắt dê”. Bịt mắt bắt dê là một trò chơi dân gian
mang đậm tính phồn thực. Vì vậy, nam – nữ trong tranh được tô vẽ theo từng cặp
mang ý nghĩa âm – dương giao hòa rất rõ.
BỊT MẮT BẮT
DÊ
Trong
lời Thoán của quẻ Khuê có nói: 二女同居, 其志不同行 “Nhị nữ đồng cư, kỳ chí bất đồng hành” ( Hai
người con gái ở với nhau mà chí không cùng nhau). Quả đúng như vậy, chỉ khi nào
âm dương giao hòa thì khi đó mới có sự phát triển; nếu như âm dương không giao
hòa thì chẳng khác gì hai cô gái hoặc hai chàng trai ở cùng nhau và hiển nhiên
là sự sinh sôi cũng không có. Nói rộng hơn, nếu không có âm dương kết hợp thì
bất kỳ vật gì trong vũ trụ đều không thể sinh trưởng và hình thành nên được. Vì
vậy, bức tranh “ Bịt mắt bắt dê”, chính là thể hiện tính phát triển qua sự kết
hợp âm dương là thế.
Bên
cạnh việc thể hiện tính âm dương mang nghĩa phát triển, thông qua hình tượng nam
– nữ, thì trong tranh dân gian Đông Hồ việc dùng hình tượng nam – nữ để thể
hiện tính xung đột của âm dương cũng khá phổ biến. Nhờ đó nó phản ánh tính xung
đột của mối quan hệ xã hội giữa con người với con người. Điển hình của cách
thức biểu đạt trên ta có thể kể đến bức tranh “Đánh ghen”.
ĐÁNH GHEN
Trong
tranh “Đánh ghen”, chúng ta thấy xuất hiện một nam, một nữ nhưng nam nữ ở đây
không tương đồng, thể hiện qua hai người phụ nữ đối với một người đàn ông và
một bé trai. Như thế, nó cũng thể hiện âm dương không tương đồng “âm thịnh,
dương suy”, nên việc xung chiến giữa âm dương hiển nhiên xảy ra. Bởi thế, thông
qua việc thể hiện tính xung đột giữa âm dương, nghệ nhân dân gian đã khắc họa
cảnh đánh ghen cũng là một cách thể hiện rất tài tình tính không tương thích
của âm dương thông qua các nét vẽ.
Qua mấy bức tranh vừa phân tích ở trên, phần
nào cho ta thấy sự giao hòa của âm – dương và tính xung khắc của âm – dương thông
qua hình tượng nam nữ. Khi âm dương giao hòa đăng đối, nó thể hiện sự phát
triển; khi âm dương không tương đồng, nó thể hiện tính xung khắc, tranh đấu. Đó
là tư tưởng mà nghệ nhân dân gian đã đồng nhất với quan điểm Dịch học. Trong Hệ
từ truyện có nói: 天地氤氲,萬物化純,男女構造,萬物化生 “ Thiên địa
nhân huân, vạn vật hóa thuần, nam nữ cấu tạo, vạn vật hóa sinh” ( Khi trời
đất giao hòa thì mọi vật thuần túy, nam nữ kết tinh, muôn vật hóa sinh). Hay
như câu: 剛柔相推, 變在其中“Cương nhu
tương thôi, biến tại kỳ trung” (Cứng mềm xô nhau là biến đổi ở
trong đó).
Như
vậy, cương nhu, trời đất, trai gái đều là những phạm trù chỉ âm – dương, Trương
Tái học giả đời Tống đã gọi biểu hiện đó là: 二端 “Nhị đoan” (hai đầu mối). Và hai
đầu mối đó đã được phát triển rộng hơn nữa trong tranh dân gian Đông hồ bằng
biểu thức trái – phải, có – không, trên – dưới. Tức là, cái gì được biểu hiện
bên trái là dương, bên phải là âm; biểu hiện ở trên gọi là dương, không được
biểu hiện và ở dưới là âm. Cụ thể hơn, chúng ta tìm hiểu qua một số tranh sẽ
rõ.
Ở
trên, tính âm dương biểu hiện qua vị trí trái phải đã được đề cập sơ lược, thông
qua vị trí tay trái, tay phải và số dừa trong hai tay của người hái dừa trong
tranh “Hứng dừa”. Nhưng để thấy rõ hơn biểu hiện của âm dương qua đặc tính trái
phải, chúng ta cũng cần đi vào phân tích một vài bức tranh cụ thể sẽ thấy rõ
hơn. Bức tranh đầu tiên chúng ta có thể bắt gặp hình tượng âm dương như thế là
bức tranh “Đấu vật”.
ĐẤU VẬT
Tranh
“Đấu vật” ở trên, nếu xét theo quan niệm dân gian qua câu nói“ Tả dương, hữu âm;
tả nam, hữu nữ…”. Ta sẽ có tính âm dương được thể hiện qua tư thế “ tả - hữu”
của các đô vật. Nếu như đô vật bên đông giơ tay trái thì đô vậy bên đoài sẽ giơ
tay phải và ngược lại. Quan niệm âm dương theo tư thế trái – phải không chỉ thể
hiện qua bức tranh đấu vật, mà nó còn thể hiện qua một số tranh khác như bức “Tam dương khai thái” vẽ hai chú gà
trống, một con nhấc chân trái – một con
nhấc chân phải. Tranh “Chọi trâu”
cũng có cùng cách biểu đạt như vậy.
Bên
cạnh quan niệm âm dương trái phải thì quan niệm âm dương bằng biểu thức có –
không; trên - dưới cũng được thể hiện khá nhiều trong tranh dân gian Đông Hồ.
Chúng ta hãy xét qua một vài bức tranh cụ thể.
ĐINH TIÊN
HOÀNG
Bức
tranh “Đinh Tiên Hoàng” tính âm dương được biểu hiện bằng việc đối lập giữa hai
người cùng thuộc tính nam, nhưng một người được thể hiện bằng có vật nắm trong
tay và đưa lên cao biểu trưng cho dương, cương. Một người không có vật trong
tay và hạ thấp biểu hiện cho tính âm, nhu. Biểu thức có không, cao thấp như thế ta còn
thấy qua các bức tranh khác như tranh “Múa lân”, “Rước trống”.
MÚA LÂN
RƯỚC TRỐNG
Ta thấy tất cả số người trong tranh
đều thuộc tính nam nhưng âm dương của nó biểu hiện bằng việc người có vật trong
tay giơ lên cao biểu hiện cho dương, không có trong tay hoặc có trong tay mà hạ
thấp là biểu hiện tính âm. Đây cũng là một trong những cách biểu hiện âm dương
theo tư tưởng của Dịch học. Trong Hệ từ thượng có nói 天尊地卑,乾坤定矣, 卑高以陳,貴賤位矣 “Thiên tôn
địa ti, càn khôn định hỹ, ti cao dĩ trần, quý tiện vị hỹ” (Trời cao
đất thấp, đạo càn khôn đã định, thấp cao bày ra thì sang hèn chia thành ngôi).
Rõ ràng, từ những phân tích qua từng
bức tranh trên ta thấy tính âm dương trong tranh dân gian Đông Hồ phần nào chịu
ảnh hưởng của tư tưởng Dịch học trên nhiều khía cạnh. Âm – dương giao hòa nhau,
âm dương đan xen nhau, âm dương tàng chứa lẫn nhau và âm dương xung đột nhau.
Nhưng đó không phải là ảnh hưởng duy nhất của Dịch học được thể hiện trong
tranh dân gian Đông Hồ mà đặc trưng của Hà đồ và Lạc thư cũng được dòng tranh
này tiếp nhận cụ thể.
B – ẢNH HƯỞNG CỦA HÀ ĐỒ - LẠC THƯ
TRONG TRANH DÂN GIAN ĐÔNG HỒ
Hà đồ - Lạc thư là những truyền thuyết
cổ. Từ triều Tống về sau, nhiều người đã hình thành tư tưởng “thâm căn, cố đế”
cho rằng Hà đồ và Lạc thư là nguồn gốc của Bát quái. Vì thế, nó cũng là nguồn
gốc của sách Chu Dịch. Thực tế thì tư tưởng này đã không phù hợp với lịch sử.
Ghi chép sớm nhất về Hà đồ - Lạc thư là trong thiên “Cố mệnh” của sách Thượng Thư, nói đến lễ đăng quang của Chu Khang
Vương, trong lễ đăng quang có bày các loại ngọc, trong đó có tờ Hà đồ.
Vì
thế, rất có thể Hà đồ - Lạc thư ra đời muộn hơn Thượng Thư, trong Luận Ngữ
Khổng Tử có nói: 鳳鳥不至, 河不出圖, 吾已矣夫 “Phượng điểu bất chí, Hà bất xuất đồ, ngô dĩ hỹ phu” (Phượng
hoàng không đến, Hoàng hà không hiện đồ, ta hết trò rồi). Còn trong Dịch truyện
cũng có nói 河出圖, 洛出書, 聖人則之 “Hà xuất đồ, Lạc xuất thư, thánh nhân tắc chi”. Ngoài ra, trong các sách văn hiến cổ Trung Hoa
như Mặc Tử, Lã Thị Xuân Thu, Hoài Nam Tử… đều có nói đến Hà đồ. Cuối
thời Tây Hán thì những tác phẩm bàn về Hà đồ – Lạc thư xuất hiện nhiều. Vì thế,
chúng ta thấy Hà đồ - Lạc thư là một hệ thống kiến thức lớn và ảnh hưởng đến tư
tưởng của nhiều học giả. Bởi vậy, Hà đồ - Lạc thư đã được nhiều học giả diễn
giải trên nhiều hình thức khác nhau để thể hiện quan điểm riêng của mình.
Như
vậy, việc tiếp nhận hệ tư tưởng từ Hà đồ – Lạc thư đã ảnh hưởng tới nhiều học
giả từ cổ chí kim. Hơn thế nữa, ngay trong cấu trúc tạo hình thì tư tưởng này cũng
đã có những ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhiều môn nghệ thuật tạo hình cổ. Quan niệm của
Hà đồ - Lạc thư như thế cũng được các nghệ nhân dân gian Đông Hồ tiếp nhận. Vì
thế, ta thấy biểu tượng Lưỡng nghi trong tranh dân gian làng Hồ có nét phảng
phất của biểu tượng “ Hà đồ tự nhiên của
đất trời”. Bên cạnh đó, sự ảnh hưởng của Hà Đồ - Lạc thư còn thể hiện trên
nhiều bình diện khác. Điều đó chúng ta có thể minh chứng qua bức tranh “Ngũ hổ”
được nghệ nhân dân gian Đông Hồ tạo tác sẽ thấy rõ ảnh hưởng hệ thức Hà đồ -
Lạc thư tới dòng tranh này.
NGŨ HỔ
Nhìn vào bức tranh ta thấy, năm con hổ
trong bức tranh “Ngũ hổ” có màu sắc hoàn toàn trùng khớp với diễn sắc của Lạc
thư. Bên cạnh đó, ngũ hành tương khắc lại ngược theo chiều kim đồng hồ thể hiện
tính mâu thuẫn, biến hóa trong nội tại một cá thể. Như vậy, ta dễ nhận ra được kết
cấu sinh khắc này giống như sinh khắc của ngũ hành trong đồ hình Lạc thư vừa
diễn số và diễn sắc ở trên.
Trung tâm của bức tranh là hổ vàng,
vàng thuộc hành thổ; vòng ngược chiều kim đồng hồ sẽ gặp hổ đen, đen thuộc hành
thủy (Thổ ó Thủy); tiếp
theo là hổ đỏ, đỏ thuộc hành hỏa (Thủy ó Hỏa); rồi nữa lại đến hổ trắng, trắng thuộc hành kim
(Hỏa ó Kim); kế
đến là hổ xanh, xanh thuộc mộc (Kim ó Mộc). Cuối cùng nhập lại vào trung tâm gặp hổ vàng,
ta lại có cặp tương khắc (Mộc ó Thổ). Vòng
ngũ hành tương khắc này quay theo vòng tròn gần khép kín và thông qua tính khắc
đó nó cũng tự đánh dấu sự tương sinh của ngũ hành bằng các cặp hành đối nhau
qua trung tâm.
Như vậy, theo Lạc thư ta thấy diễn
số của tranh ngũ hổ như sau:
2 7
6
9 5 1
4 3 8
Đây
là một trong những bức tranh thể hiện khá đầy đủ và trọn vẹn tư tưởng của Lạc
thư, một đồ hình căn bản của nền lý học Đông phương. Bởi mang đặc trưng ấy nên tranh
“Ngũ hổ” đã được sử dụng trong việc thờ cúng. Bên cạnh đó, nó còn là bức tranh nhằm
truyền tải nhiều ý nghĩa khác. Ở đây hiện lên một điều hết sức đặc biệt là toàn
bộ hệ thống diễn số của Kinh Dịch đã được gói gọn trong một bức tranh duy nhất
và bức tranh đó cũng đã bao quát được cả một hệ thống tư tưởng khá đồ sộ của
Dịch học. Đó chính là vấn đề sinh khắc của ngũ hành, cùng những tín ngưỡng ẩn
sau bức tranh thông qua màu sắc và các con số cụ thể.
C – ẢNH
HƯỞNG CỦA TÍNH QUẺ TRONG TRANH ĐÔNG HỒ
Dịch học là một hệ thống tư duy hoàn
chỉnh, tư duy biến dịch là phương thức thông qua quan điểm biến hóa để tiến
hành khảo tả sự vật. Dịch học được sáng tạo nên từ nền tảng tư duy về sự biến
hóa của vạn vật. Bản thân Kinh Dịch đã hội tụ đủ tính biến hóa ở trong đó. Quan
niệm biến dịch trong Dịch học biểu hiện thành những lớp, như biến hóa của quái
tượng và hào tượng; tiếp đến biến hóa cát hung của con người mà quái tượng và
hào tượng là vật tượng trưng; cuối cùng là quái từ và hào từ dựa vào biến hóa
của hiện tượng tự nhiên.
Trong Chu
Dịch, quái tượng có thể biến hóa, loại biến hóa này thông qua biến hóa của hào
tượng để thực hiện biến hóa. Vì vậy, quái tượng của quẻ này đã biến thành quái
tượng của quẻ khác nhờ vào mối liên kết của các quái tượng. Khi đã có những
biến quái cụ thể người ta có thể dựa vào từng hào từ mà dự đoán kết quả và tiền
đồ của con người và sự vật. Kết quả có thể tương đối nhưng đó cũng là một hệ
thức mang tư tưởng của Dịch học. Vì thế, trong ý niệm mang tư tưởng Dịch học,
đã bao hàm nhiều ý niệm thông qua biểu ý của hệ thức tương đồng với Dịch. Chúng
ta hãy tìm hiểu qua một vài bức tranh cụ thể để thấy được ý niệm của nhiều quái
từ, tượng quẻ được nghệ nhân dân gian thể hiện qua các bức tranh Đông Hồ.
Sự thực, trong một số bức tranh dân
gian Đông Hồ, ý niệm quẻ đã hội tụ đầy đủ thông qua kết cấu bố cục của một bức
tranh. Ngược lại, có một số tranh ý niệm quẻ không đầy đủ mà chỉ chứa đựng ý
nghĩa của từng hào từ. Nhưng dù là bao quát được ý nghĩa rộng hay hẹp thì trong
những bức tranh làng Hồ đó đã hàm chứa một tư tưởng sâu xa có từ ngàn đời để
mang đến một triết lý mới cho cho dòng tranh của mình. Xin được phân tích quan
điểm đó qua bức tranh “TAM DƯƠNG KHAI THÁI” để bạn đọc thấy rõ.
Nhìn vào bức tranh ta thấy bao trùm
toàn cục là màu vàng thổ, thổ thuộc tượng quẻ Khôn . Nhưng điều đáng lưu ý của bức tranh này
không phải chỉ ở riêng màu sắc mà còn nằm trong tiêu đề luận giải bức tranh ấy.
Tiêu đề bức tranh là: “TAM
DƯƠNG KHAI THÁI
”. Như vây, ý nghĩa đầu tiên của bức tranh đã mang một ý
nghĩa khai mở. Điểm nhấn của bức tranh mà chúng ta thấy chính là một tiểu tiêu
đề tam dương (ba dương). Như vậy, ba
dương chính là tượng của quẻ Càn . Chu Hy
cũng đã từng giản đơn hóa cách nhớ tượng quẻ càn bằng câu 乾三連 “ Càn tam liên” (Càn ba nét liền). Quẻ Càn là quẻ
đầu tiên trong Kinh Dịch thể hiện sự khởi đầu, sự hanh thông, sự mới đang bắt
đầu nảy sinh.
Quay lại xét màu sắc của bức tranh, ta
thấy màu sắc của bức tranh bao trùm là màu vàng thổ, biểu hiện cho tượng của quẻ
Khôn. Bởi thế, khi tam dương (Càn)
kết hợp với hoàng thổ (Khôn) hẳn sẽ “Khai Thái” ( Mở ra Thái). Bởi trong
tất cả 64 quẻ của sách Chu Dịch duy nhất có tượng của quẻ “Thái” được biểu ý là
“ Địa – Thiên: Thái”, và được vạch nét như sau:
Như vậy bức tranh “TAM DƯƠNG
KHAI THÁI” hẳn là bức tranh chúc phúc, cầu sự hanh thông, mong muốn may mắn đến
với gia đình trong những dịp xuân về và cho cả năm thêm phú quý, hạnh phúc. Bởi
quái từ của quẻ Thái có nói 泰 -小 往,大來,吉亨 “Thái –
tiểu vãng, đại lai, cát hanh” ( Quẻ Thái cái nhỏ qua đi, cái lớn
đến, tốt lành hanh thông). Chu Hy lại bàn “ Thái là hanh thông, nó là quẻ trời đất
giao nhau mà hai khí thông nhau, cho nên gọi là Thái, đó là tháng giêng…”.
Qua đây, ta thấy tính quẻ đã được thể
hiện khá rõ nét qua bức tranh “TAM DƯƠNG KHAI THÁI”. Nhưng đó
không phải là bức tranh duy nhất thể hiện tính quẻ. Bên cạnh đó ta còn gặp biểu
hiện tính quẻ qua các bức tranh như “Lợn đàn”. “ Cá đàn”.
CÁ ĐÀN
LỢN
ĐÀN
Nhìn
vào bức tranh ta thấy, số lợn và số cá trong bức tranh là sáu con, một mẹ, năm con.
Trong cuốn “Chu
Dịch tường giải” ( Nguyễn Quốc Đoan, NXB VHTT 1998), phần tổng hợp về
thuyết quái có nói về quẻ Khảm như sau: “
Về động vật thuộc lợn, cá, con vật
sống trong nước, con hồ ly, loài thủy tộc”, có nghĩa chúng thuộc về thủy. Bên cạnh đó, để ý bức tranh ta lại thấy một
điều, chủ đạo của hai bức có lợn mẹ thuộc mầu xanh đen, cá mẹ là màu đen pha
trắng, cả hai cũng đều có màu sắc thiên về thủy xét câu 天一生水,地六成之 “Thiên nhất
sinh thủy, địa lục thành chi”. (Quẻ dương thủy ở một, thành ở âm thủy sáu). Rất
ứng hợp với hai bức tranh trên. Hơn nữa bố cục chính và bao quát bức tranh là
lợn mẹ và cá mẹ có kích thước và màu sắc khác hẳn năm lợn con, cá con. Đây
chính là điểm nhấn mà nghệ nhân dân gian muốn đặc tả. Hơn nữa, về số trong phần
tổng hợp thuyết quái ta thấy số 1 ứng với quẻ Khảm . Bên cạnh đó số lợn con và cá con là năm
con, số 5 ứng với Khôn . Bởi vậy, ta sẽ có một quẻ hoàn chỉnh, Khảm
trên, Khôn dưới. Đó chính là tượng của quẻ Tỉ ( Thủy - Địa: Tỉ), với các nét
vạch sau:
Quái từ của quẻ Tỉ có nói 比 -吉, 原巫元永貞. 無咎, 不寧方來.
后夫凶 “ Tỉ, cát,
nguyên vu, nguyên vĩnh trinh. Vô cữu bất ninh phương lai. Hậu vu hung” (Quẻ Tỉ
tượng trưng cho sự thân cận giúp đỡ. Bói được quẻ này là tốt lành, đại cát. Lợi
cho việc lâu dài, không có tai họa. Việc không yên ổn đến đâu hễ có đi là có
đến. Chậm trễ tất gặp nguy hiểm.).
Chính
vì tượng quẻ như thế mà trong bức tranh vẽ đàn lợn, đàn cá nghệ nhân dân gian
muốn thông qua đó để thể hiện sự thân cận, xum họp đông đủ và cũng thể hiện
việc cầu chúc con đàn, cháu đống như quẻ đã nói, lợi cho việc lâu dài, không có tai họa. Ấy là thể hiện cho đời này
nối tiếp đời kia là vậy.
Ngoài những bức tranh mang toàn bộ
tính quẻ như trên thì trong tranh dân gian Đông Hồ cũng có những bức tranh chỉ
mượn ý hoặc lời đề ở một hào từ nào đó để truyền tải những ý cầu chúc sự tốt
lành, sự may mắn, hạnh phúc cho bản thân hoặc gia đình. Điển hình trong những
bức tranh ấy ta có thể kể đến bức tranh “Đại cát”
ĐẠI CÁT
Bức tranh trên có tựa đề là “Đại cát”,
đại cát là lời của một quẻ bói tốt cho mọi công việc, và bản thân của người
chiêm bốc được quẻ đó. Nhìn vào bức tranh ta thấy, chủ thể bức tranh là một chú
gà trống đứng một chân, dân gian vẫn gọi là “Kim kê độc lập” (Gà vàng đứng một
chân), thường các bức tranh cầu phúc, mong muốn sự cát vượng trong tranh dân
gian Đông Hồ đa số dùng hình tượng gà. Vì theo thuyết quái truyện quẻ Tốn thuộc
về động vật là “ Gà, các loại cầm, sâu
bọ, rắn”. Tốn trong các quẻ kép của Dịch học gọi là phong, phong đồng nghĩa với ý nghĩa của phong lưu, phong thịnh. Vì
lẽ đó tượng của các quẻ mang ý nghĩa tốt lành thường là những quẻ có thượng quẻ
thường là quẻ Tốn . Đó là những quẻ sau:
TIỂU SÚC QUAN GIA NHÂN ÍCH
TIỆM THUẦN TỐN HOÁN TRUNG PHU
Qua đây, ta có thể thấy, tính quẻ thể
hiện ra khá phong phú qua tranh dân gian Đông Hồ và hàm chứa nhiều ý tưởng sâu
xa. Trong khoa học hiện đại tiêu chí để đánh giá mức độ chính xác và tin cậy
của một luận điểm bao giờ cũng theo quan điểm “Một giả thuyết khoa học chỉ được coi là đúng nếu nó giải thích được
hầu hết những vấn đề liên quan đến nó”. Chính bằng những nhận định sơ lược
nhất qua hệ thống tranh dân gian Đông Hồ, người viết đã mạnh dạn đưa ra quan
điểm riêng của mình, thông qua đó phần nào minh chứng thêm về tư tưởng Dịch học
thông qua hệ thống tranh của làng Mái xưa kia ở một mức độ nhất định nào đó.
III – HỆ THỐNG CHỮ HÁN – NÔM TRONG TRANH ĐÔNG HỒ
Tranh dân gian Đông Hồ đã góp phần không nhỏ vào việc lưu giữ
vốn văn hoá cổ xưa của dân tộc, làm cho đời sống tinh thần của người Việt Nam thêm phong
phú và đa dạng. Nếu bóc tách từng lớp văn hoá hiện trên mỗi bức tranh Đông Hồ
cũng đủ cho chúng ta thấy vốn văn hoá Việt thuần khiết, trong sáng, đa dạng và
vô cùng độc đáo. Các nghệ nhân Đông Hồ đã chuyển hóa những lời hay - ý đẹp,
những kinh nghiệm đúc rút trong cuộc sống từ ngàn đời để lại vào tranh với
những cách thể hiện rất riêng. Điều ấy đã được minh chứng qua việc trên những
bức tranh Đông Hồ hệ thống chữ Hán – Nôm được sử dụng nhằm trang trí và
thể hiện chủ đề của bức tranh rất phong phú thông qua những tứ thơ tình tứ,
lãng mạn. Vì thế, thật là thiếu sót khi tìm hiểu về dòng tranh này mà lại bỏ
qua một phần văn hóa khá đặc trưng như thế còn lưu giữ trong tranh. Qua đây,
người viết xin được giới thiệu cùng bạn đọc hệ thống lời đề từ bằng chữ Hán –
Nôm trên tranh dân gian Đông Hồ.
Trong tranh dân gian Đông
Hồ, mỗi đề tài lại có lời đề từ khác nhau. Tranh lịch sử và tranh về các con
vật lời đề từ thường đơn giản, ít màu sắc, đa số nói đến tên nhân vật, và vị
thế của người hoặc con vật trong bức tranh đó. Duy đề tài sinh hoạt là phong
phú hơn cả và lời đề từ trong chủ đề này cũng đa dạng nhất.
Trong tranh 打慳 “ Đánh ghen”, ta thấy xuất hiện câu thơ chữ Nôm
崔 又 抇 𢠣 爫
之 調 生 事 辱 𨉟 辱 些
Thôi thôi vuốt
giận làm lành
Chi điều sinh
sự nhục mình, nhục ta.
Trong
bức 興 “Hứng dừa” lại có câu.
𠸦 埃 窖 𢫡 𢧚
帝 𨅹 低 興 朱 皮 𠬠 堆
Khen ai khéo dựng nên dừa
Đấy trèo đây hứng cho vừa một đôi
Còn trong bức tranh “Trê – cóc” có đề câu thơ:
䇠 埃 乃 停又
揚 𩻟 𡏤 爭 行 拯 双
Giỏ ai quai nấy dành dành
Dương vây, giơ ngạch tranh
hành chẳng xong
Ngoài
ra, trên một số lượng lớn tranh Đông Hồ, lời đề từ chữ Nôm được thay bằng lời
đề từ chữ Hán. Số lượng lời đề từ trong các tranh như thế cũng khá phong phú.
Tranh
“Chăn trâu thổi sáo” có câu: 荷葉盖青青 "Hà diệp cái thanh thanh" (Lọng lá sen xanh
xanh).
Còn
trong bức “Chăn trâu thả diều” có câu: 舞秋風一相 "Vũ thu phong nhất tướng" (Một hình ảnh gió
thu múa). Trong bức tranh “Chăn trâu thả diều”, còn có hai dị bản của lời đề từ
khác nữa. Một bức có chữ 舞秋風一翼 "Vũ
thu phong nhất dực" (Một cánh gió thu múa), bức kia có chữ 一相福禄田 "Nhất tương phúc lộc điền" (Một niềm hạnh phúc, may
mắn của nhà nông).
Trong tranh “Thầy đồ cóc” có câu: 老蛙講讀 “Lão oa giảng độc” (Lão ếch [cóc]
giảng bài).
Trong tranh “Kim kê phúc lộc thọ toàn”
có câu 夜唱五更和 “Dạ xướng ngũ canh hòa” (Đêm
gáy năm canh hòa).
Bên cạnh đó, trong dòng tranh Đông Hồ
còn có một hệ thống tranh chỉ có lời đề tựa cho tên tranh như các bức:
三 陽 開 泰
Tam dương khai thái
會 跮 𤛠
Hội chọi trâu
董 天 王 大 破 賊 殷
Đổng Thiên Vương đại phá giặc Ân
徵 王 除 賊 漢
Trưng Vương trừ giặc Hán
吳 王 權 打 賊 漢
Ngô Vương Quyền đánh giặc Hán
丁 先 皇
Đinh Tiên Hoàng
大 吉 Đại cát
礼 智 Lễ trí
仁 Nhân nghĩa
榮 花 Vinh hoa
富 貴 Phú quý…
Như
vậy, thông qua hệ thống câu chữ Hán – Nôm thể hiện trên tranh dân gian Đông Hồ,
phần nào đã cho ta thấy được tính phong phú và mang đậm nét văn hóa Việt Nam của dòng
tranh dân gian này.
IV
– KẾT LUẬN
Mỗi dòng tranh Dân gian ngoài những đặc điểm chung
giống nhau, thì chúng lại có những đặc điểm riêng khác nhau. Sự khác nhau đó
chính là những nét tô đậm thêm cho sự phong phú của kho tàng Nghệ thuật tranh dân
gian truyền thống của người Việt. Tranh dân gian Đông Hồ không chỉ đóng góp vào
dòng tranh truyền thống với các bức tranh mang những chủ đề như:
Đề tài Lịch sử: thường gắn với các
nhân vật lịch sử như các tranh: Hai bà Trưng, Bà Triệu, Đinh Tiên Hoàng cờ lau
tập trận, Trần Hưng Đạo chiến thắng quân Nguyên...
Đề tài sinh hoạt như các
tranh: Đấu vật, Đánh đu, Hội làng, Hứng dừa, Đánh ghen, Chăn trâu -thổi sáo,
Chăn trâu - thả diều... Các tích văn học, hoặc dân gian: Kiều, Thạch Sanh, hoặc
tố nữ với Cầm, Kỳ, Thi, Hoạ...
Đặc biệt nổi bật là tranh
các con vật như: các tranh Lợn: Lợn đàn, Lợn độc, Lợn ăn cây dáy. Các Tranh Gà:
Gà đàn, Gà -Đại cát, Gà -Thư hùng, Gà trống - nghinh xuân. Tranh các con vật
khác như: Vịt, Trâu, Mèo, Rồng - Rước Rồng, Hổ - Ngũ Hổ, Chuột, Cá, Cóc.
Đề tài tứ quý: Mai - Hạc
(mùa Xuân), Phù dung - Chim Trĩ (mùa Hạ), Ngô Đồng - Chim Phượng (mùa Thu),
Tùng - Chim Công (mùa Đông).
Con vật khi là đề tài
riêng, hoặc khi được nghệ nhân sáng tạo em bé với gia cầm như bức Vinh hoa,
Phúc Lộc song toàn với (em bé ôm gà trống), (em bé ôm rùa), (em bé ôm cá); hoặc
đưa con vật vào tranh với lối ẩn dụ nhằm phản ánh nội dung xã hội con người như
các tranh: Đám cưới chuột, Thày đồ Cóc, Trê cóc..
Bên
cạnh đó, dòng tranh này còn góp phần vào mở rộng thêm tư tưởng bác học, làm cho
nó nổi bật hơn những dòng tranh cùng thời. Đó là tư tưởng Dịch học thông qua các
bức tranh, bằng những hình ảnh hiện lên cụ thể trong tranh, bằng những triết lý
thông qua các hình ảnh được nghệ nhân dân gian sáng tạo. Tranh dân gian Đông Hồ
đã thể hiện được khá rõ nét những ảnh hưởng của tư tưởng Dịch học. Chính vì
mang trong mình tư tưởng như thế, mà dòng tranh này đã có được sức sống lâu bền
và có sức cuốn hút với nhiều thế hệ người Việt Nam cũng như du khách nước ngoài.
Đặc biệt với các nhà nghiên cứu, đó không chỉ bởi những đề tài trên tranh phản
ánh đậm chất cuộc sống mộc mạc, giản dị, gần gũi và gắn liền với văn hoá người
Việt. Mà sâu xa hơn chính là những triết lý được thể hiện thông qua các bức
tranh, và hiện lên rõ nhất mà chúng ta có thể thấy khi đi phân tích những bức
tranh ấy. Tư tưởng sâu xa đó không phải tư tưởng nào khác, đó là tư tưởng Dịch
học. Một tư tưởng đã có từ hàng mấy ngàn năm trước giờ hiện hữu thông qua hình
ảnh của dòng tranh có tuổi đời chưa tới ngàn năm này. Một tư tưởng mang tính
bác học và tràn đầy ý nghĩa nhân sinh quan trong đó.
Tài liệu tham khảo:
-
Dịch học
nguyên lưu ( Đặng Văn Canh, NXB VHTT – 2002)
-
Luận bàn về
Kinh Dịch ( Triệu Hướng Dương, Trương Hưng Toàn, NXBVHTT – 2002)
-
Kinh Dịch
trọn bộ ( Ngô Tất Tố, NXB TPHCM – 1991)
-
Chu Dịch phổ
thông ( Nguyễn Duy Hinh, NXB Cà Mau – 1995)
-
Dịch Học ( Chu Bá Côn, NXB VHTT – 2003)
-
Kinh Dịch
cấu hình tư tưởng Trung Quốc ( Dương Ngọc Dũng, Lê Anh Minh,
NXB Khoa học xã hội – 1999)
-
Âm dương
ngũ hành với đời sống con người (Lê Văn Quán, NXB Văn hóa Dân tộc –
2002)
-
Chu Dịch tường
giải” ( Nguyễn Quốc Đoan, NXB VHTT – 1998)
-
Tính minh
triết trong tranh dân gian Việt Nam
( Nguyễn Vũ Anh Tuấn, NXB VHTT – 2002)
-
Kinh Dịch
và hệ nhị phân ( Hoàng Tuấn, NXB VHTT – 2002)
-
Dịch học
tinh hoa ( Nguyễn Duy Cần, NXB TPHCM – 1992).
-
Đồ họa cổ
Việt Nam ( Phan Cẩm
Thượng, Lê Quốc Việt, Cung Khắc Lược, NXB Mỹ Thuật – 1999).