Nguyễn Văn Chiến
Việc quan sát địa thế, Long hình để táng mộ là một trong những yếu quyết đầu tiên mà các nhà phong thủy phải lưu tâm. Bởi vì, chỉ có thể hiểu hình thế đó thuộc cách gì, cát hung ra sao mới giúp các nhà phong thủy định được đúng huyệt mà mình cần táng mộ cho gia chủ. Ở dưới đây xin giới thiệu một vài cách, cục mà Tả Ao tiên sinh đã truyền lại cho hậu thế.
1 - THÁI CỰC CHI ĐỒ
(Đồ hình Thái Cực)
Hữu mạch khởi tổ phương lai
Hung tu cầu lưỡng thuỷ tai
Phục hợp đường tiền tiên tối hảo
Tự nhiên phú quý tự vô lao
Có nghĩa:
Có mạch khởi ở Tổ sơn từ xa lại
Trong lòng huyệt cần thấy lưỡng thủy ôm ấp hai bên
Quay đầu lại gặp Minh đường phía trước thì rất tốt
Táng mộ ở đó tự nhiên sẽ phú quý mà không cần vất vả.
Ý muốn nói rằng: Mạch khi nhập vào trong lòng thì bao lấy huyệt mà tạo nên các kiểu huyệt như: Mai hoa sát, Song kim sát, Đấu mạch sát, Tán hung sát. Bốn kiểu huyệt này gọi là Tứ sát vì thế không thể táng mộ được. Nhưng phần đoạn mạch ở đầu, nếu phân nhỏ tinh vi, hơi thấp thì ắt sinh cát cuộc. Như bản thân cát tinh khi tụ được khí lành sẽ sinh may mắn và điềm phúc. Hoặc thấy có Oa, Kiềm, Nhũ, Đột táng ở chỗ có Oa, Kiềm, Nhũ, Đột tất nhiên được đại phú quý. Đây là cuộc đất tốt nhưng rất khó xem và nắm được chân Long không phải ai cũng làm được. Vì thế, tiền nhân đã có bài thơ truyền rằng:
Nhập hung tu cầu đoạn tế vi
Nhược nhân yêu kiên lợi bất ni
Thô đại trực trường giai khả tị
Tế vi đoạn tiểu quý vô nghi
Có nghĩa:
Nhập huyệt cần cầu chỗ đoạn ngắn phân chia nhỏ bé, tinh vi
Thắt vào như eo người nếu dùng thì tốt
Nếu trông nó thô, ngay thẳng mà lại chạy dài thì cần phải tránh
Nhỏ nhắn phân thành từng đoạn ngắn thì quý vô cùng không còn nghi ngờ gì nữa.
Dưới đây xin phân tích một cuộc đất cụ thể qua hình:
Cuộc này tổ tông cao vút mà có hộ vệ đi kèm, chạy từ ngàn dặm lại, thế hùng vĩ mở ra hình kim thuỷ. Thái cực vây bốn xung quanh có điểm phong tinh, trong ngoài đều thuần phục. Tả sa uốn quanh co như vành tai, hữu sa tiếp tục phối hợp mà thành chân Long. Đây là cuộc đất quý, hiển nhiên là đại cát địa cho phú quý. Nên có câu ca rằng:
Vân tiêu trực trực nhất thiên Long
Thế nhược kim hình dữ thuỷ thông
Hổ bão quá Long triều cố tổ
Long loan hướng Hổ lập hồi tông
Nam sinh tất đắc đề kim bảng
Nữ xuất thanh kì nhập ngọc cung
Thuỳ thức mạch trung vi đệ nhất
Thuỷ chi xu hướng lại nhân thông
Có nghĩa là:
Trong đám mây cuồn cuộn có hàng ngàn con rồng
Cái thế của nó (tức Huyền Vũ) có hình kim mà thuỷ thông
Dáng Hổ ôm qua Long và quay đầu lại chầu về tổ sơn
Long lại uốn lượn đến Hổ dừng lại mà quay trông khởi tông
Táng chỗ đó thì con trai sẽ đỗ bảng vàng
Con gái sẽ đoan chính mà được vào những chỗ cao quý
Người nào hiểu được bên trong mạch này thì là đệ nhất
Thuỷ thì có xu hướng tiến đến nên giúp người hanh thông
2 - MÃ TỬ ĐỒ
(Đồ hình con ngựa)
Du du khởi tổ phái chi phân
Nhập huyệt vi mang nãi thị chân
Lưỡng thuỷ giao lai đường nội tụ
Tự nhiên phú quý vĩnh thiên xuân
Có nghĩa:
Mạch khởi tổ từ xa đi tới chia thành các chi nhỏ
Khi nhập vào huyệt rất tinh tế nên khó nắm bắt được chính xác
Nhưng hễ có hai dòng nước giao cắt chảy đến Minh đường và tụ lại
Thì tất nhiên đấy chính là mạch dành cho sự phú quý ngàn năm
Cần ghi nhớ: Phàm khi mạch đã nhập vào lòng huyệt, cần chú ý chọn lấy những đoạn nước chảy tinh vi, hoặc rộng rãi để định huyệt thì đích thị đúng. Giả như trông mạch thô kệch, dựng đứng mà nhập vào huyệt thì chớ nên chọn, nếu không là sát khí thì cũng sinh họa khí. Điều này hết sức phải chú ý. Tuy nhiên, bản thân cuộc đất phía trước nghênh đón Long phía sau, sau đó lại đón tả sa và hữu sa, xét ra có đủ cả bốn sa đều nghênh đón, trong ngoài bao bọc, bốn bên vây kín không lộ khí. Sơn thuỷ hữu tình phối hợp mà tạo thành chân Long, đây chính là một quý cách và hiển nhiên nên chọn lấy chỗ ấy để táng mộ, chắc chắn sinh phú quý. Xin xét một cuộc đất để hiểu rõ hơn.
Cuộc này phát ở tổ sơn từ xa lại, hình thế hùng vĩ mà nhập cục, trước sau đều được bao bọc, tả hữu tròn chịa, vây bốn xung quanh là núi nhô cao, bên trong uốn quanh hồi hoàn, tàng phong, tụ khí. Được kiểu đất như vậy thì đời đời phát quan, thực là một kiểu đất lớn và cực phú quý. Nên có bài truyền ngôn như sau:
Thế tòng Huyền vũ, Hổ Long phân
Tả hữu loan hoàn nhập thử phần
Lưỡng Hổ đới triền thành triết phụ
Trùng Long liên bút xuất hiền nhân
Đường tiền nguyệt chiếu sinh tiên nữ
Sơn phục trùng trùng xuất tướng quân
Đại địa khả tri y thử cục
Đương minh huyệt nội thọ thiên xuân
Có nghĩa:
Hình thế theo Huyền vũ mà phân rõ Long, Hổ
Tả hữu quanh co như vòng ngọc mà nhập vào mộ
Có hai Hổ quấn quýt thì con gái thông tuệ
Có hai Long như ngọn bút thì con trai giỏi giang
Phía trước mặt (Minh đường) sáng sủa sinh bậc tiên nữ
Núi nổi lên trùng trùng sẽ sinh bậc tướng quân
Đây là cuộc đất lớn có thế nắm rõ nếu xét theo cục
Được thế đất này mà đặt huyệt thì thọ mãi ngàn năm.
Cũng có bài ca về thế đất Mã tử như sau:
Cục Phương Mã tử thế gian đâu
Thử địa thành vi hiến tước câu
Địa trục tất sinh tam phẩm tự
Long hình duy sử lưỡng Long khâu
Tứ vi viên tú thiên thu hảo
Vạn lĩnh tằng tằng bách thế luân
Phối đắc Long chân minh huyệt nội
Tất sinh hào kiệt bá hoàng đô
Có nghĩa:
Cục Phương Mã tử thế gian rất hiếm
Kiểu đất này dành cho những người sớm có tước hầu
Chỗ cốt yếu của đất tất sinh bậc tam phẩm
Hình Long đi như có hai Long hộ vệ
Bốn bên vây kín như khu vườn tươi mãi ngàn thu
Muôn ngọn núi tầng tầng, ấy là điềm trăm đời giữ đạo lý
Phối được chân Long bên trong minh huyệt
Tất sinh hào kiệt làm vua chốn đô thành
Lại có bài ca khác như sau:
Cục thế hình như vạn tinh thành
Tướng quân nghiêm toạ tại bình cung
Long châu sinh tại hải trung thuỷ
Hổ ấn phương như thiên thượng tinh
Chính án phẩm sơn hà tất vấn
Chủ tinh củng nội chúng sơn hành
Quan tướng tự cổ kim đâu dị
Phúc tự tiên sinh nhãn lực tinh
Có nghĩa:
Cục thế như vạn ngôi sao trong thành
Mà vị tướng quân đang ngồi tại trong cung
Long châu sinh ra tại nước lòng biển
Ấn Hổ vuông tựa ngôi sao trên trời
Trông thế thì án sơn ngay chính diện sao cứ phải hỏi?
Chủ tinh đi thì có tất cả các sơn cùng theo
Các bậc quan tướng từ xưa đến nay không ít
Nhưng phúc phải được nhìn từ con mắt tinh tường của thầy.
3 - MỘC TƯỚNG THỦ THÀNH, KIM TINH LẠC THUỶ CÁCH
(Tướng mộc giữ thành, cách kim tinh lạc thủy)
Siêu siêu mạch phát tổ tông sơn
Thế đoản hình trường huyệt chí nan
Tứ thuỷ trừng thanh kim hữu thuỷ
Tự nhiên phú quý cộng đồng ban
Có nghĩa:
Mạch chạy vun vút từ núi tổ tông
Thế thì ngắn, hình thì dài, huyệt kết rất khó
Bốn bên nước trong lành, kim có thuỷ
Tự nhiên sẽ được phú quý trời ban cho
Giải thích mạch này như sau: Mạch chạy thẳng nhập vào huyệt. Vì thế, nên cầu những đoạn thuỷ ngắn nhưng tinh vi đi thẳng đến giúp mạch nhập huyệt thì ắt sẽ sinh cát. Nhưng nếu mạch mà thẳng, dài, thô lậu nhập huyệt thì không thể táng được, nếu táng xuống không chết thì cũng tuyệt tự. Vì vậy, cần rất ghi nhớ. Cuộc đất quý này bốn mặt đều có thuỷ, tả hữu quanh co như vòng ngọc, tàng phong, tụ khí. Đấy gọi là Mộc tướng thủ thành (Tướng mộc giữ thành), có kim tinh rơi vào thuỷ, kiểu đất như vậy rất đẹp. Nhưng tìm đúng huyệt thật tình rất khó, nhưng khi thấy chỗ phối hợp chân Long thì đúng là đất tốt. Mạch này xuất từ núi tổ tông lại, thong thả đi ngang, uốn khúc rồi chạy thẳng, có thuỷ hộ vệ mênh mông, núi trùng trùng tiếp giáp. Khi sắp dừng lại kết huyệt thì rất tinh vi, huyền ảo, có minh tinh đứng nhìn. Ấy chính là chân huyệt. Cho nên có lúc gọi là mạch thuận, hay mạch thẳng, lại có chỗ là mạch nghinh, mạch hoành. Nếu nắm được điều này chắc cũng không khó tìm huyệt lắm. Cho nên có bài ca dạy rằng:
Cổn cổn sơn hành đới thuỷ biên
Tổ Long cao trạc tảo khôi nguyên
Long cung giá bút đăng thiên ngoại
Hổ bạn trừng thanh nguyệt chiếu tiền
Nhất địa hà tri tâm tối hảo
Tử tôn phú quý tất thiên nhiên
Có nghĩa:
Cuồn cuộn núi đi có thuỷ đi liền
Tổ Long cao vút nổi lên sớm đậu khôi nguyên
Long cung có hình bút nhô lên phía bên ngoài
Bên gò Hổ trong sáng như trăng soi phía trước
Một cuộc đất cực quý như thế sao không biết?
Để cho con cháu sinh giàu sang .
4 - MÃ TỬ TRANH TIÊN, PHỤ TỬ KẾ KHÔI NGUYÊN CÁCH
(Ngựa tranh lên trước, cách cha con kế tiếp nhau đỗ đạt)
Tổ khởi hữu lai nhập tả kiên
Hữu sơn hữu thuỷ tụ đường tiền
Long sa tiên đáo vi triều án
Hổ bão ngoại Long phúc vĩnh mien.
Có nghĩa:
Tổ khởi từ bên phải đi tới nhập vào tả kiên
Có sơn có thuỷ tụ ở phía trước Minh đường
Long sa trước đến làm triều án
Hổ ôm Long ở bên ngoài nên phúc dài mãi
Mạch này có dáng Long đi uyển chuyển, xuất phát từ phía tây chạy đến phía đông thì nhập cục. Có thuỷ quay đầu chạy về phía đằng trước. Long ban đầu chạy qua Hổ, Hổ lại ôm lấy Long như một thân. Cho nên có thể gọi đây là nghinh cục, bởi có tả sa và hữu sa cùng nghinh đón. Chứng tỏ đó là chân Long, chính huyệt. Phía trước, phía tả hữu đều chầu phục và có quý sa ứng chiếu. Thấy cuộc đất như thế sẽ biết được phú quý ở đâu, tất nhiên đó là cách tốt. Xin xem hình và phân tích ở bên dưới:
Bản thân mạch phát từ tổ sơn mà tiến đến, dáng đi uyển chuyển, hồi đầu lại như hình chiếc vòng ngọc, thân của Long trông như cái dải bút, phục ngôi ở cung phía trước. Bốn bên hội chiếu vào trong, sơn thủy uốn lượn mềm mại, có ba đỉnh nhỏ phụ bên ngoài. Được đất ấy thì trong cuộc đời lên quan lớn. Đây là đất quý, có nó thì như trời ban phúc vậy. Cho nên, có bài ca truyền rằng:
Long hành uyển chuyển bút sinh biên
Thử thị thần đồng trạc thiếu niên
Hổ xuất Hổ mao hình tự lập
Mã khiên mã tử thế tranh tiên
Vân dằng sơn ngoại thần đồng xuất
Nguyệt chiếu giang hồ ngọc nữ chuyên
Nhược kiến đại giang hoàn nhiễu bão
Tất nhiên phụ tử kế khôi nguyên
Có nghĩa:
Long đi uyển chuyển và có bút đi liền
Ấy là cuộc đất sinh bậc thần đồng từ khi còn nhỏ
Hổ xuất hiện thì thấy hình dáng Hổ đang đứng
Mã lớn đi thì có mã con tranh lên đằng trước
Bên ngoài thấy núi cao sẽ xuất thần đồng
Nguyệt chiếu vào sông hồ thì sinh ngọc nữ đoan chính
Nếu có sông lớn vây quanh ôm lấy huyệt
Thì đó đúng là kiểu đất cho cha truyền, con nối chức khôi nguyên.
5 - CÁT CẦM TINH HÌNH ĐỒ
(Đồ hình cát cầm tinh)
Tổ khởi tả kiên nhập hữu sa
Long tòng thuỷ nhiễu tụ đường Oa
Long quá tây cung tiên bái tướng
Hổ quá đông cung thế thế khoa
Có nghĩa:
Tổ sơn bắt đầu từ tả kiên nhập vào sa phải
Long vòng theo thuỷ tạo thành Oa huyệt
Long chạy qua phía tây bái tướng (gò Thanh Long)
Hổ chạy phía đông mãi đăng khoa (gò Bạch Hổ)
Huyệt này có tổ sơn cao chót vót, mạch lớn đi đến từ phía đông, chạy qua phía tây mà nhập huyệt, quay đầu lại rồi chầu phục. Đầu tiên tiến đến như bái lạy, sau xuất Long Hổ trùng trùng rồi kết huyệt Oa ở trong đó. Cứ dõi theo chân Long sẽ gặp chính huyệt. Táng ở đó đời đời khoa danh không dứt. Đây là một trong những quý cách khó tìm. Nay xin phân tích cụ thể qua hình và chú giải:
Đầu tiên thì chỉ thấy Long nghinh bản thân, sau tả sa, hữu sa đều nghinh. Khi thấy Long như vậy xuất hiện thì cần phải biết ngay được hình Long mà tìm ra chính huyệt. Muốn gặp huyệt phải chú ý đến tả hữu uốn quanh như vòng ngọc, bốn xung quanh tĩnh lặng. Đấy chính là chân Long mà trời đã định. Bí mật này trước hiếm người truyền ra ngoài, hoặc gặp được cách tốt như thế nhiều người còn tự giết mình mà chôn xuống đấy. Người đời vẫn luận và giải ra là huyệt Cát cầm tinh. Nếu nhất cầm thì tiểu phú, nhị cầm trung phú, tam cầm, tứ cầm mang hình đá cao, ngũ cầm, lục cầm chỉnh tề nhập vào huyệt thì vàng dòng, kim ngọc của cải ngàn kho mà phát thành bậc đại phú. Cầm tinh mà trùng điệp đến phần mộ, thì đúng là cách cứu nghèo tinh vi nhất. Nhưng không phải ai cũng may mắn mà gặp được chân Long như vậy. Hoặc giả như gặp huyệt tựa cổng thành uốn làm dăm ba khúc, táng xuống đấy thì con cháu cũng được kề cận bậc vua chúa. Nếu lại có dòng nước sâu mà có dăm ba gò nổi lên định được huyệt chỗ đó sẽ làm bậc khanh tướng vỗ về muôn dân.
6 - NGƯU MIÊN CHI ĐỒ
(Đồ hình trâu ngủ)
Siêu siêu phát tổ khởi căn nguyên
Uyển chuyển hồi hoàn mạch khúc huyền
Hữu kiên đáo tả vi chuyển hữu
Bàn vu cục thế tự ngưu miên
Đường khai nội ngoại giai chân huyệt
Sơn chiếu quần tinh phúc vĩnh miên
Có nghĩa:
Gốc của tổ sơn phát từ rất xa mà chạy lại
Dáng của nó uyển chuyển, hồi hoàn, mạch uốn khúc rất huyền ảo
Hữu kiênđảo qua trái rồi lại chuyển về bên phải
Cuộn khúc kết cục trông hình dáng như mắt trâu
Ở giữa rộng mở mà khai ra chân huyệt
Núi cao có quần tinh hộ vệ thì phúc dài mãi
Có thể hiểu mạch này như sau: mạch phát từ hữu kiên rồi đi qua tả kiên vòng lại phải một khoảng ngắn mà nhập huyệt. Tả hữu đều quấn quýt ôm lấy nhau mà có quần tinh hộ vệ, hai mặt đều có thuỷ tụ. Đây là cuộc đất tốt. Tuy nhiên, cuộc đất này kết mạch mà có Hổ đang chấn ngay sống huyệt thì không được táng (vì thế như trâu bị Hổ vồ sẽ mất hết khí). Bởi huyệt này khi nhập cục phải dư khí thì táng mới tốt, giúp cho con cháu đời đời giàu sang. Xin luận giải bằng hình ảnh và chú thích
Huyệt này trước chỉ nghênh đón bản thân, sau tả sa và hữu sa đều nghênh đón, phía trước mặt có hoả tinh chiếu, rủ xuống như cái khăn che đầu, núi trông như cái mũ nở đầy hoa, và thường quay về chiếu vào trong huyệt. Đây chính là cục rất quý cho phát khôi nguyên. Người đời luận giải hình thế mà gọi là Thú tinh (sao Thú). Đời có bài truyền ngôn sau:
Nhất cá thú tinh kiêm bạc uý
Nhị cá thú tinh tri phủ quan
Tam cá thú tinh kinh lược chế
Đề hình chiêu phó vận ty quan
Tứ cá thú tinh cố thừa tướng
Ngũ cá phong hầu phụ mã quan
Lục cá triều thiên phù đế vị
Hợp môn ý quyến tận phong ban
Có nghĩa là:
Có một sao thú làm chức quan nhỏ,
Có hai sao thú làm đến chức tri phủ
Có ba sao thú làm kinh lược chế, quan Đề hình, Chiêu phó vận ty
Có bốn sao thú có thể làm thừa tướng
Có năm sao thú phong làm vương hầu hoặc phụ mã
Có sáu sao thú là người dựng ngôi vua
Họ hàng thân quyến đều được ban thưởng
7 - QUÝ NHÂN LẬP MÃ
(Quý nhân lên ngựa)
Tổ Long tự hữu nhập Long kiên
Hổ thuỷ hồi hoàn đáo diện tiền
Hổ bão qua cung tiên tác án
Long bao qua Hổ phúc niên niên
Có nghĩa:
Tổ Long từ bên phải nhập vào Long kiên
Hổ thuỷ hồi hoàn đến trước mặt
Hổ chạy qua cung đằng trước làm thành án tiền
Long ôm lấy Hổ phúc sẽ dài mãi
Có thể hiểu mạch này như sau: mạch phát ở cung phía tây chạy đến cung phía đông thì nhập huyệt, huyệt này bên trong nhìn thấy có hai sao thái dương cùng chiếu, hình giống như Hổ tranh mồi. Hai bên tả hữu hồi hoàn từ trong ra ngoài rồi hướng phục lại vào trong. Có giá bút vút cao, đầm sáng bên ngoài chiếu vào, muôn sông chầu đến thành nhiều dòng, các núi tụ hội trông như lập huyệt. Nhưng lúc ấy thì đang chính mạch không thể táng được. Xin thuyết minh qua đồ hình ở dưới cùng lời chú giải.
Mạch này chạy từ hướng tây đến hướng đông thì nhập cục, hình thế trông giống kim tinh, hình như Hổ tranh mồi, đây là kiểu đất cực quý, có thể nhiều đời thành đạt trong khoa mục, nhưng huyệt này khó táng, nếu không đúng chân Long thì hoạ có thể chiếm hết phúc. Nên có bài ca rằng:
Hậu san luỹ luỹ xuất trùng san
Long Hổ siêu siêu thế nhược bàn
Mộc thanh nghi đắc thanh giang chiếu
Kim bạch tu cầu giản thuỷ loan
Nam tử tất sinh đa thịnh vượng
Nữ nhi định thị xuất bình an
Chân huyệt kí đắc truyền thiên thế
Vạn đại thời sư yếu sát quan
Có nghĩa:
Núi sau vun đắp tầng tầng lớp lớp mà sinh các ngọn núi (ở đây muốn nói đến Huyền vũ là ngọn núi trông như có vạn ngôi sao rủ xuống đầu rồi dừng lại). Long Hổ vãng lai tạo nên thế như đang cuộn lại. Trông như cây xanh được nước trong chảy vào vun tưới ( Mộc thanh ý nói Thanh Long ở phương đông cây cỏ tươi tốt, lại có sông dài uốn lượn, ôm ấp). Cung Kim bạch phải có thủy đến bao quanh (Kim bạch ý nói Bạch Hổ ở phương tây có thuỷ uốn lượn). Nếu là con trai sẽ được giàu sang. Nếu là con gái sẽ được bình an. Chân huyệt kiểu này đã được truyền lại từ ngàn đời. Nhưng vạn năm rồi đã có nhiều thầy muốn xem nó.
8 - QUỶ SƠN VƯƠNG TỰ PHÁT MỘC NHÂN HÌNH, CẢI TỬ HOÀN SINH CÁCH
(Vua Quỷ sơn sinh người mộc, cách cải tử hoàn sinh)
Tổ sơn vương tự tự đông biên
Chuyển hữu nhi lai nhập tả kiên
Hổ bạn đáo tiền Long đáo hậu
Lân tu dịch thuỷ hội triều tiền
Có nghĩa:
Tổ sơn vương tự xuất phát từ phía đông lại
Chuyển qua phải mà nhập vào tả kiên
Gò Hổ thì đến đằng trước mà Long lại đến đằng sau
Hình Lân sát nách và có thuỷ hội trầu phía trước
Có thể hiểu như sau: Mạch bắt nguồn từ khởi tổ, từ bên trái mà đến bên phải, rồi lại quay về phía trái mà nhập cục. Tất cả điều đó đã tạo nên sự thay đổi to lớn mà sinh quý cục, được cục đó thì Long sao có thể chết được? Chỉ khi thấy Long, Hổ hình kim tự khắc hình mộc thì Long mới chết. Tuy nhiên khi không bị khắc, Long Hổ sinh ở nơi kết huyệt tất sẽ phát đại giàu sang. Nhưng nếu như Long có thay đổi quá lớn thì tất Long sẽ chết. Chỉ khi được tả sa và hữu sa uốn lượn ôm ấp thì sẽ sinh Long ở thế cục: Cải tử hoàn sinh. Bởi vậy mới có chuyện cái sống đẩy lùi cái chết. Xin được chú giải cụ thể hơn ở dưới:
Khi Long đi mà có nhiều thay đổi lớn, từ đông sang tây, từ tây lại chuyển sang đông, mà có tả sa, hữu sa tương hỗ thì được coi là quý cách. Người xưa thường luận giải là Quỷ tinh (sao Quỷ). Nên mới có bài truyền ngôn như sau:
Nhất cá Quỷ tinh phát bản nhân
Nhị cá Quỷ tinh tác tỉnh nguyên
Tam cá Quỷ tinh Hàn lâm vị
Đề hình, Án phủ vận ti liên
Tứ cá quỷ thần nhập triều sĩ
Nhật kim khu mật phụ vương thiên
Lục cá Quỷ tinh vi chính bái
Hợp môn ân quyến quế chi sinh
Có nghĩa:
Có một sao Quỷ thì phát cho bản thân
Có hai sao Quỷ thì có thể đứng đầu một tỉnh
Có ba sao Quỷ thì có vị trí ở Hàn lâm, Đề hình, Án sát phủ, vận ấy sẽ không thể hết.
Có bốn sao Quỷ sẽ làm quan trong triều
Có năm sao Quỷ sẽ giúp vua lấy thiên hạ trong chốn khu mật
Có sáu sao Quỷ sẽ làm tể tướng, người thân trong dòng tộc sẽ sinh được người giỏi giang, đẹp đẽ.
9 - THU NGUYỆT ẤN XUYÊN ĐỒ
Đồ hình trăng thu in đáy nước
Long hình loan bão tứ vi viên
Khí tụ hình tàng tại thuỷ uyên
Sơn khởi Càn Khôn nghi Cấn Tốn
Thuỷ mang bát tiết huyệt thiên nhiên
Có nghĩa:
Hình Long uốn lượn ôm lấy bốn bên trông như hình tròn
Khí tụ, hình dáng ẩn tàng ở tại nơi có dòng nước sâu
Sơn mạch khởi từ Càn Khôn mà thành ở Cấn Tốn
Thuỷ khí vi diệu suốt bốn mùa thì huyệt định rõ ở đó
Mạch này có thể lý giải như sau: Long mạch khi mới khởi phát đã uốn lượn, quay lại một khúc bao lấy bên trong long huyệt. Thuỷ lành kết tụ với núi xanh ở một chỗ, như có trăng sao chiếu sáng. Khi ấy, thân Long sẽ bao lấy hướng. Đất này dành cho phát khoa danh, hiển đạt vô cùng. Có người lý giải Mạch khởi từ sơn nguyên; tuy nhiên, khi Long mới phát khởi đã có sự biến đổi lớn như thế sẽ thành Long chết. Nhưng cách này mà có tả sa và hữu sa uốn lượn bao bọc, lại có nước trong cuốn khắp, bốn mùa không cạn; Án tiền sáng mà lại tĩnh thì dù Long có tử cũng biến thành huyệt hoàn sinh, nếu chọn được nơi ấy mà táng thì sẽ đại phú, đại quý. Xin chú giải cụ thể qua hình:
Sơn hình bao bọc kín bên trong, lại tàng phong, tụ khí thì huyệt sẽ sinh ra từ trong thuỷ. Được huyệt này thì con trai thịnh vượng, con gái quý hiển. Nên đây được coi là quý cách. Đời trước có thơ truyền rằng:
Lưỡng thuỷ phần trung đáo diện tiền
Án phù thuỷ thượng nguyệt thu thiên
Hổ cung bão đĩnh long triều ứng
Huyền Vũ loan hoàn hữu thuỷ duyên
Yếu đắc tả biên sinh trác bút
Tu cầu hữu bạn xuất tiêm viên
Long hình đảo địa sơn như hốt
Tảo chiếm khoa danh quán thiếu niên
Thuỷ khẩu thạch sơn tầm thiên ủng
Ủng khởi nhai sơn yếm chúng miên
Đại địa vũ văn nhân quá phủ
Anh hùng mãnh liệt vạn nhân chiêm
Có nghĩa:
Hai dòng nước đến ngay phía trước mộ
Án tiền nổi trên mặt nước như vầng trăng thu trên trời
Cung Hổ ôm ấp mà Long đến triều ứng
Huyền Vũ uốn lượn như vòng ngọc men theo dòng nước bên phải
Quan trọng thấy được bên trái hình như bút dựng đứng
Thì cần tìm bên phải xuất hiện một gò nhỏ
Long hình thay đổi dưới đất mà núi trông như chiếc hốt
Được đất ấy thì thiếu niên đã sớm chiếm khoa danh
Thuỷ khẩu có núi đá cần tìm chỗ giao cắt nâng đỡ
Khi đột khởi lên có bờ cao vút phải đầy đủ các cửa
Như thế đời đời văn võ giỏi nhất phủ
Sinh ra anh hùng dũng mãnh muôn người đều phục
10 - HỔ MIÊN CÁCH
(Cách hổ ngủ)
Tổ sơn tự hữu quá Long kiên
Nhập hung đương minh nhất tiết thiên
Yếu đắc hữu sa bao quá huyệt
Tất sinh phú quý tử tôn hiền
Có nghĩa:
Tổ sơn từ bên phải chạy qua Long kiên
Nhập huyệt lúc này trông như đốt trúc cắm xuống
Quan trọng có hữu sa bao bọc lấy huyệt
Thì tất sinh con cháu thảo hiền và phú quý
Mạch này đi như sau: Mạch bắt đầu khởi từ bên phải đi đến bên trái thì nhập cục. Đầu tiên Hổ vào trong, sau Long lại tiếp tục đi liền, trong ngoài quanh co, uốn lượn, tả hữu khởi phục, trông như bức thành trên có ngọn tinh phong. Sông uốn lượn quấn quýt, thuỷ xuất hiện thì có núi cao xuất hiện. Đây quả là một cách quý, nếu được huyệt này, phát phúc rất lâu bền, nên có thể gọi là quý cục. Cổ nhân cũng luận rằng: Bốn bên vách núi dựng đứng, lưỡng thuỷ hợp vào mà tạo ra cảnh quan. Long Hổ uốn lượn, quấn quýt, thuỷ xuất hiện thì vô cùng huyền diệu; hình thế sinh ra kim ở bên cánh, thế trông giống như mắt hổ, đấy là một quý cách. Xin xem hình và chú giải ở dưới sẽ rõ:
Khi đã nói có hình dáng to lớn thì thế cũng phải to lớn, có vạn núi, vạn sông, trước quan, sau quỷ, chủ khách uốn lượn hồi hoàn. Tất nhiên, được huyệt này phú quý sẽ phát dài mãi. Sách có nói 12 Long loan là đất của thiên tử, sao lại chọn nó làm thiên tử? Bởi nó khởi lên sẽ có 12 Long uốn lượn ôm lấy. Nếu như lại được 90 Long, tất cả các cuộc đất đều sinh thiên tử, hẳn sẽ thấy hình thế từ ngoài mà vọng chầu vào, hoặc có ba án lớn ở phía ngoài uốn lượn ôm lấy trông rất tự nhiên. Án cao như Thái sơn, phía sau có gò như núi Côn Luân thì lúc đó sẽ xuất hiện đất kiểu 12 Long chầu.
11 - HỔ NHẬP ĐÔNG LÂM CÁCH
(Cách hổ vào rừng phía đông)
Tổ khởi Long kiên nhập hữu kiên
Đáo đầu nhất tiết trực lai thiên
Tu cầu Hổ bạn bao qua huyệt
Phú quý công danh thế thế truyền
Có nghĩa:
Tổ khởi từ Long kiên nhập vào hữu kiên
Đến phần đầu tạo thành từng đốt đi thẳng tắp
Thấy Long như thế nên tìm gò Hổ bao quanh huyệt
Thì sẽ dược phú quý, công danh truyền đời đời.
Mạch này có hình thế như sau: mạch từ bên phải quay vòng mà nhập huyệt, người ta gọi mạch ấy là: Đấu mạch tán hung nhị sát (tức mạch bị hai sát khí là tán và hung xâm hại). Theo phép định mạch thì không được phạm phải. Tuy nhiên, thấy mạch này mà có hữu sa bao bọc qua Long cung, mạch nhập vào trong huyệt tinh tế không có gì khắc sát thì cách ấy rất tốt. Tuy nhiên, cách vi diệu thế này ít được các danh sư truyền lại. Khi khảo sát lúc mạch đang nhập vào trong huyệt mà vi tế (phân chia nhỏ bé) là đắc cách nên có thể táng được, tất sẽ sinh phú quý lâu bền. Quý cách kết huyệt như vậy, các danh sư vẫn gọi là cách Hổ nhập đông lâm (Hổ vào rừng đông), được huyệt này thì nối tiếp nhau giàu có. Xin phân tích cụ thể qua đồ hình và lời chú giải:
Khi Long chạy đến phần đầu thì giao đấu trực diện với nhau, nên thường gọi là Loạn sát, do đó phải rất cẩn thận khi gặp cách này. Tuy nhiên, nếu có tả sa và hữu sa uốn lượn ôm ấp, như thế giống như sự sống đến đẩy lùi cái chết. Đây là cách vi diệu, cứ theo phép ấy mà dùng thì rất tốt. Đời trước còn gọi là cách Bắc thần, và có bài truyền ngôn như sau:
Nhất cá Bắc thần quan vạn hộ
Phụ mã phong hầu chiêu thảo danh
Cao đại cánh nan tủng Vân hán
Tất thị tranh thiên đoạt quốc nhân
Nhị cá Bắc thần lưỡng bạn sinh
Thô ngang ủng khởi tố hàn kinh
Thử tinh định xuất kình thiên tướng
Trảm thạch phong vương hộ quốc thần
Có nghĩa:
Có một Bắc thần thì làm quan vạn nhà
Hoặc Phụ mã phong hầu dựng nghiệp cho vua
Nếu to lớn, cao vút đến Vân hán
Thì ắt thay mệnh trời mà đoạt ngôi vua
Có hai Bắc thần và có hai gò phát sinh
Gặp mạch thô mà chạy ngang thì sẽ lạnh lẽo, kinh hãi
Nhưng nếu có sao chính định yên thì sẽ xuất bậc thiên tướng
Chém đá phong vương, giúp nước thành công thần
12 - LONG CHÚY TÂY HOÀI CÁCH
( Cách Long ngả về phía tây)
Tổ khởi hữu kiên nhập Long kiên
Đáo đầu nhất tiết huyệt lai tiền
Tu cầu tả bạn bao quá cục
Vạn đại khoa danh thế thế truyền
Có nghĩa:
Tổ khởi từ hữu kiên nhập vào Long kiên
Đến phần đầu chia làm những đoạn nhỏ trước khi nhập huyệt
Thấy thế này thì cần tìm gò bên trái bao lấy cục
Hẳn vạn đời đỗ đạt sẽ còn truyền mãi
Huyệt này đi từ bên trái nhập vào trong lòng huyệt, kiểu đất mà tiền nhân vẫn gọi là Mai hoa song kim sát, phép xem đất không được phạm vào cách này. Tuy nhiên, nếu cuộc đất này mà thấy Tả sa bao qua Hổ cung, sau đó mạch mới nhập vào huyệt trông tinh vi thì cũng không được vội phạm, phép này rất vi diệu tạo ra cách tốt. Nhưng đương lúc ấy mà trông thấy cuộc đất chạy như chiếc khăn thì cách này mới có thể táng mộ được. Nếu táng được vào cuộc đất thế thì đời đời phú quý, nên mới gọi đó là quý cách. Tục cũ vẫn quen gọi là Long chúy tây hoài. Tên còn gọi là Nhạn tháp (tháp hình chim nhạn). Xin xem chú giải qua hình sẽ rõ thêm.
Mạch này Long đến từ bên trái qua bên phải, mạch nhập tại điểm nút bên tả kiên, Tả sa uốn lượn bao lấy huyệt. Được cách ấy thì văn xuất khôi nguyên, thực là đất quý, lại gọi đó là quan tinh, nên gọi là Quan tinh diệu nhân tri, hình của nó như thương kiếm, đinh, dùi. Án tiền không thấy rõ nên có thể coi là đại cát. Đất này có cách phong hầu, phong tướng uy nghi. Thế nên có thơ rằng:
Long hình sinh thạch tiêm như thương
Chỉ hậu chỉ gian bội kim chương
Song song bình địa tiêm như kiếm
Toàn giao tử tức nhập triều đường
Có nghĩa:
Hình long mà sinh các mỏm đá nhọn như mũi thương,
Ở trước, ở sau, bên trong trông như ngòi bút
Song song ở bình địa mà trông như mũi kiếm
Thì đất ấy dạy bảo con cháu sớm vào chốn triều đình
Nếu đất mà mỏng, thấp được bồi chút ít thì chức quan nhỏ, nhưng có những quan tinh nhỏ đi kèm, hoặc có quan tinh lớn, dài thì đất ấy đúng là đất định quan chức lớn.
13 - LONG CUNG CẤM THÁT
Tổ phát tả kiên nhập hữu kiên
Sơn cao Huyền vũ thủy chi huyền
Nhật minh nguyệt chiếu đường triều nội
Thử địa vinh hoa phú quý toàn
Có nghĩa:
Mạch này tổ phát từ tả kiên nhập huyệt vào hữu kiên
Núi cao là Huyền vũ, Thủy thì huyền diệu
Bên trong cục thì có nhật nguyệt chiếu sáng sủa
Được đất như thế thì vinh hoa, phú quý đầy đủ cả
Có nghĩa: mạch khởi từ Long cung, chuyển đến hữu cung, rồi lại đến phía tả cung mà nhập huyệt. Long cung có triều án là những sa nối tiếp nhau trùng điệp, Huyền vũ là những ngọn núi cao lớn, phía trước Minh đường có thủy tụ oa huyệt, lại có nhật nguyệt sáng sủa chiếu vào trong huyệt. Được huyệt này thì con gái cực phú quý. Nên còn gọi là Long bác hoãn. Xin xem chú thích ở dưới cùng hình ảnh sẽ rõ thêm.
Kiểu đất này ở bình địa nhưng có núi, các núi này quay chiếu vào huyệt. Từng phần quay đầu, sơn đến, thủy tụ, kiêm luôn hình thể Huyền vũ, tất cả các yếu tố đó tạo nên kiểu đấy quý. Nên có thơ rằng:
Thế thế tương liên bất tục phân
Thủy xu thâm xứ thị tri phần
Hổ sơn thủy tẩm sinh dâm nữ
Long thủy hình tha xuất đãng nhân
Nam giản khê cùng vô thí trúng
Thử trường lộ trực nữ vô nhân
Địa hình hà tất tri kì sự
Thiết yếu tu cầu chính thi vân
Có nghĩa:
Kiểu dáng đất nối tiếp nhau liên tục không có sự phân chia
Nước chảy vào chỗ sâu, xoáy đến phần mộ
Núi Hổ bị ngâm nước, sinh con gái dâm loạn
Thủy Long mang hình khác, xuất hiện kẻ phóng đãng
Phía nam có suối cạn thì không thi đỗ
Lại có đường thẳng đâm vào thì con gái không chồng
Địa hình như thế sao không hay biết?
Thiết nghĩ cứ nên theo lời thơ dạy mà làm.
Lại có thơ dạy xem Dương thủy chầu huyệt như sau:
Đại hoàn thủy triều hữu bản thân
Thân hữu sa quan lan phương hiếu
Thủy lai sa ngoại lánh dương triêu
Thế thế vi quan cánh phú nhiêu
Nhược kiến đại giang triều nhập giả
Cung giáo cực quý chính thanh tiêu
Có nghĩa:
Cuộc đất lớn có thủy chầu vào huyệt
Huyệt lại có sa quan chắn ngang tạo nên thế đẹp
Thủy đi đến, sa bao bọc bên ngoài riêng dương thủy chầu lại
Được thế đó thì đời đời nối tiếp nhau làm quan
Nhưng khi thấy sông lớn đâm thẳng huyệt
Thì dù có thanh quý đến đâu cũng bị tiêu tan hết
Cách này các môn sư đời sau nên ghi nhớ lấy mà dùng cho phải phép.
14 - HỒI LONG CỐ TỔ CÁCH
(Cách Long quay đầu về Tổ)
Siêu siêu mạch khởi viễn phương lai
Uyển chuyển hồi hoàn khuất khúc hồi
Vạn thủy thiên sơn quy nhiễu hậu
Kỳ sơn tú thủy thị bàn hồi
Có nghĩa:
Cuộc đất này có mạch khởi từ xa đi lại
Dáng uyển chuyển hồi hoàn rồi lại khúc khuỷu hồi
Muôn núi ngàn sông quay về uốn lượn ở phía sau
Núi lạ, sông đẹp như đang quay về trông ngóng .
Có người giải thích như sau: kiểu đất này có mạch từ ngàn dặm phân ra chi, cán mà đến, tả hữu đi thuận hòa, uyển chuyển và ôm lấy huyệt. Sơn thì hồi đầu, thủy thì chuyển hướng, trong ngoài giao kết. Nên được gọi là Hồi Long cố tổ, và được coi là cuộc đất quý. Huyệt trông lại sáng sủa thì đúng là kiểu đất phú quý kiêm toàn, nên khi thấy mạch nhập cước, nước nhập long, thì đấy chính là cuộc đất kì lạ này, đẹp hết thảy và rất khó kiếm. Nên có thơ rằng:
Tùng tả nhi lai
Vị chi xích mạch
Tùng hữu nhi lai
Vị chi thốn mạch
Tức là: Mạch từ bên trái mà lại thì mạch sâu một thước, nếu mạch từ bên phải đi lại thì mạch sâu một tấc. Xin xem hình và lời giải thích sẽ rõ hơn:
Mạch phát từ tổ tông ở nơi xa mà lại, trên phân ra huynh đệ, dưới thì hợp tổ tông, có chư thủy hộ tống, muôn nhánh quay chầu về phía đông. Mạch thì chạy theo hướng hữu, huyệt lại tàng phong. Được đất ấy ắt sinh hào kiệt, đời xuất anh hùng. Đất này gọi là Hồi Long cố tổ chiếu huyệt, thực là kiểu đất đại phú, đại quý. Có bài ca truyền rằng:
Hậu tiền sơn thủy các phân hành
Chỉ thị sơn đầu chủ khách nghinh
Long mạch hà tu cầu địa cát
Huyệt thành bất tất hợp thiên hình
Hữu tình bất việt sơn hồi bão
Sa xứ vô qua địa thản bình
Có nghĩa:
Trước sau sơn thủy phân chia rõ ràng mà đi
Duy chỉ có sơn đầu như chủ đón khách
Long mạch sao lại cứ phải cầu chỗ tốt?
Bởi vì huyệt đã thành thì chưa chắc hợp thiên hình
Có tình thì không thể vượt qua kiểu sơn quay lại ôm ấp huyệt
Các sa cũng không thể qua khoảng đất rộng và bằng.
15 - HỒI LONG CỐ TỔ
(Long quay lại ngóng tổ)
Long lai trực trực nhập đông biên
Thủy hội đường tiền phóng hữu huyền
Thượng phân tả hữu vi cầm thế
Bất hợp giao nhiêu hữu thú miên
Có nghĩa:
Long đến đi thẳng tắp mà nhập vào phía đông
Thủy hội vào trước Minh đường rồi phát ra rất huyền bí
Phía trên thì phân tả hữu thành Cầm thế (dáng như hình chim)
Phía dưới giao kết uyển chuyển và có Thú miên ( hình như mắt thú)
Mạch này lại được giải thích như sau: Hồi Long cố tổ mạch, tự phát từ gốc tổ mà lại, trên thì phân ra huynh đệ, dưới thì hợp tổ tông, tàng phong tụ khí, mọi nguồn nước đều trong xanh, phía sau có ngọn núi cao, bên ngoài được chiếu bởi các tinh, bên trong ẩn tàng bốn cái đẹp, táng được đúng chân long này thì phát đại phú quý, nên gọi là cái quý của cách Hồi Long cố tổ; lại đúng chân long thì tất sinh ra đại phú, đại quý. Xin xem hình và chú giải để thấy điểm khác so với cách Hồi Long cố tổ ở cách trên.
Kiểu đất này có mạch phát từ sơn đầu mà đi lại, trên phân tả hữu, dưới tương hợp mà giao kết quấn quýt nhau, có lưỡng sa hỗ tống, chúng thủy đổ vào chầu phục. Mạch chạy theo hướng tả, cục thế hình Cầm, có muôn sao chiếu vào trong, được đất ấy thì nhà phải dùng đấu đong vàng, nếu huyệt được chiếu sáng sủa, thì đời sẽ xuất hiện người tài giỏi, hiền nhân nên còn gọi là Hồi Long cố tổ chính cách. Đó là mạch đất của đại phú quý. Cho nên có câu khẩu truyền:
Tổ phát cao phong cổn cổn lai
Hùng thư tả hữu lập môn đài
Đường trung hữu thủy loan như nguyệt
Án ngoại đường lai tịnh liệt thai
Nam trù khốn ngoại bình cung thượng
Nữ quản cung trung phượng các khai
Nhược kiến ngoại sơn phong trĩ lập
Vinh hoa phú quý đích vô sai
Có nghĩa:
Tổ phát từ núi cao cuồn cuộn đi lại
Trống – mái, trái - phải lập thành cửa đài
Phía trong Minh đương có thủy uốn lượn như mặt trăng
Bên ngoài Án đường lại thành hàng lối
Nam thì mưu lược vượt người
Nữ thì quản lý trong cung, mở gác phượng
Nếu thấy ở ngoài có núi cao vút đứng
Thì vinh hoa phú quý ở đó chứ không sai.
16 - NGỌA TỈNH DIỆN CÂU HƯỚNG NGUYỆT THỦY ĐỂ CÁCH
Tổ tông trực trực tủng thiên trùng
Long mạch thô ngang nhất lý tùng
Nhất tiết hoành lai nhi nhập cục
Lưỡng sơn triêu quá lập thần đồng
Long cung tiên đáo hồi tây cá
Hổ bạn hoành lai tất bão Long
Ngọa tỉnh diện câu nhi hướng nguyệt
Tất nhiên phú quý nữ nam đồng
Có nghĩa:
Tổ tông cao vời vợi từ xa đi đến thẳng tắp
Long mạch mà thô kệch chạy ngang thì phải lần theo
Thấy một đoạn chạy ngang sẽ nhập cục
Có hai sơn chầu lại thì lập thần đồng
Long cung trước đến hồi chầu về phía tây
Cung Hổ lại đi ngang ôm ấp lấy cung Long
Làm thành giếng mặt thông ra hướng nguyệt
Tất nhiên sẽ được phú quý cho cả nam và nữ.
Mạch này đi thẳng tắp, khí tượng thô mạnh, bốn bên có núi cao đứng vây, tả hữu uốn cong như cánh cung, đến phần đoạn đầu, văn vũ cùng hợp. Nữ thì quý hiển, đời xuất anh hùng, trong dài chọn ngắn thì huyệt tại chính nơi đó. Xin xem hình và lời chú giải sẽ rõ thêm.
Tổ sơn cao vút, mạch phát thô và mạnh, long đi dài và xa, tinh ứng với núi cao nhọn, thần đồng sinh ra từ đó. Thủy chạy ngang ôm lấy Long, đoạn chạy ngang sinh ra một đốt thành huyệt, trong huyệt thì tàng phong; đấy là đất quý, đời sẽ xuất hiện anh hùng, nếu huyệt được chiếu sáng sủa, con trai hanh thông, đây chính là cách của chân long. Có thơ rằng:
Tả hữu loan hoàn kí hữu tình
Phó quan Huyền vũ nhược bồng doanh
Hữu hình tất kiến sinh đa tử
Vô thế đương quan tử bất sinh
Vạn phó tri sinh dư tri tử
Đường tiền khuynh tả hãm nhi khanh
Bắc phương nhược khuyết thâm y hậu
Hà thủy lưu hành quá bất đinh
Có nghĩa:
Tả có loan uốn lượn thật hữu tình
Trông thấy Huyền vũ nổi cao hẳn lên
Thế có tình hẳn sẽ sinh nhiều con trai
Không được vậy thì chỉ có tử mà không có sinh
Phía trước Minh đường nước chảy rốc xuống tạo thành hố vây hãm.
Phương bắc lại bị khuyết, phía sau thụt hãm
Nước chảy có một mình qua đó đơn lẻ
(Gặp cách như vậy chớ có táng kẻo họa đến thân)
17 - NGOẠI CẦM NỘI THÚ ĐẠI TIỂU LOA TINH CÁCH
Tổ sơn đại khởi nhập Long kiên
Thủy nhiễu hoàn hồi hậu đáo tiền
Tả hữu loan hoàn lai hướng phục
Tế vi nhất tiết nhập yêu thiên
Có nghĩa:
Tổ sơn trỗi dậy lớn mạnh nhập vào Long kiên
Thủy ôm ấp, uốn lượn quay đầu từ sau ra trước
Tả hữu loan hoàn rồi ngoảnh về chầu
Một khúc nhỏ tinh vi thắt eo nhập vào thành huyệt
Có người giải thích cách này như sau: Sơn sinh ra từ gò hữu (Bạch Hổ), đến bên trái (Thanh Long) nhập vào nơi đất thắt eo thì kết huyệt. Thủy ở phía sau chảy về trước, trong Minh Đường tụ khí, Nguyệt chiếu trước Minh Đường; Long, Hổ giao hỗ, tả hữu quấn quýt. Thấy như thế thì đó chính là chân huyệt, tất nhiên sẽ sinh phú quý. Lại có người giải thích thêm về cách này như: Long quay đầu lại để Hổ ôm ấp, tả, hữu quấn quýt, trong Minh Đường có minh nguyệt, bên ngoài có bút, tất cả chiếu vào bên trong huyệt. Đất như thế thì phú quý kiêm toàn. Xin xem hình và chú giải sẽ rõ.
Cách này thì Sơn đi thô lớn, kết cục thì tinh vi, sơn kì vĩ, thủy thanh tú, Long Hổ triều quy, nếu đúng được đất hình thế này thì thật là phú quý. Còn gọi là Quỷ tiêm diệu ( Nết tốt của quỷ). Vì thế cần phải theo thiên tinh và theo quẻ, trông thủy mà định huyệt thì khó sai. Lộc mã, quý nhân, quan chức đều ở đó. Nhưng đến phần đầu của cách này thì không được táng kẻo sẽ bại gia. Nên có bài thơ rằng:
Bút giá lâu đài thương tinh kiếm
Cánh thị quan tinh diệu tế vi
Bình dương hoành án lai loan bão
Hậu sơn trực khứ vị sáng tinh
Sinh tuy sinh dực thị cầm hình
Hữu giác hữu nha thử thú tinh
Tùy Hổ, tùy Long giai xuất hiện
Loa tinh đại tiểu hộ Long thần
Có nghĩa:
Bút gác trên lâu đài, bên có cờ bên có kiếm
Ấy chính là quan tinh rất vi diệu, tinh tế
Bình dương có án tiền đi ngang mà uốn lượn, ôm ấp
Núi sau thẳng đến nhọn như mũi giáo.
Nếu hình như mỏ, như cánh thì là Cầm hình
Còn như sừng như răng gọi là Thú tinh
Tùy Hổ, tùy Long khi xuất hiện
Thì sẽ có Loa tinh lớn nhỏ hộ vệ thần Long.
18 - TẢ ĐƠN ĐỀ CÁCH
Tổ tông tủng bạt thế kim loan
Hiệu lý Long lai khuất khúc hoàn
Quần tinh chiếu huyệt Long tiêm tú
Thử tả đơn đề thế bất khan
Có nghĩa:
Tổ tông cao vút có thế hình kim ngoằn ngoèo
Long đến từ ngàn dặm gấp khúc rồi uốn tròn
Quần tinh chiếu vào huyệt, Long nhỏ mà đẹp
Đây là thế Tả đơn đề, người đời không dễ gặp
Có người giải thích cách này như sau: Sơn đến cái tử liền chuyển, thế cục chỉ có bên trái, hình hỏa vây bốn xung quanh, trong ngoài hình kim uốn lượn, chư tinh chiếu vào bên trong huyệt. Sơn thủy hồi hoàn. Đương cục như thế thì đúng là được cách phát phúc dài lâu, nếu như đắc địa thì văn thi đậu khôi nguyên. Lại có người nói rằng: Sơn đến mà sinh huyệt, gò tả hồi hoàn, hữu kiên tác chứng. Như thế gọi là Tả đơn, còn luận là cách Tả tiên cung huyệt. Xin xem hình và chú giải dưới đây:
Cách này thì mạch đến rất uyển chuyển, sơn khởi có đỉnh cao lớn, Long ôm qua Hổ nên gọi là cách Tả tiên cung hay Tả đơn đề. Luận cách ấy có Cầm, Thú, Quan, Quỷ các sao đều sáng sủa. Phép bí truyền hay chú ý đến tam Cầm, tứ Thú, ngũ Quan, Quỷ, Diệu. Muốn học tầm Long, trước tiên phải nhớ điều đó; nhưng cũng không được quên câu quyết sau:
Nhược phù bất thức lục cát tinh
Đồng nhân hữu nhãn bất quang minh
Thức đắc thử tinh chân thị bảo
Bất thức thử tinh đa lạo thảo
Chân Long đoan đích hữu thử tinh
Đoạn huyệt thử tinh na lý thảo
Minh đường thủy khẩu kiến thử tinh
Có nghĩa:
Dù tìm được tam, tứ, ngũ như trên cũng không được quên lục cát tinh
Cùng là người nhưng mắt chưa chắc đã sáng sủa như nhau
Biết được sao này mới đúng là chân quý
Không biết được sao bị nước xung phá
Đầu mối chân Long bắt đầu từ sao ấy
Đoạn nhập huyệt sao khác ẩn chứa xung phá
Thì trước Minh đường phải thấy thủy khẩu
Dương Công có nói:
- Hỏi thế nào là Cầm?
- Như rồng như cá gặp thủy khẩu mà sinh thì gọi là cầm
- Thế nào gọi là Quỷ?
- Núi chủ phục về phía sau mà sinh dư khí thì gọi là Quỷ.
- Thế nào gọi là Thú?
- Như hổ, như báo sống ở nơi thủy khẩu thì gọi là Thú.
- Thế nào gọi là Diệu?
- Như rắn, như long, hổ phục sinh thì gọi là Diệu.
- Thế nào gọi là Quan?
- Triều sơn bối phục, nhỏ mà tiến xa thì gọi là Quan.
19 - HỮU ĐƠN ĐỀ CÁCH
(Cách hữu đơn đề)
Tổ sơn cao khởi thế kim loan
Hiệu lý Long lai khuất khúc hoàn
Chư sơn chiếu huyệt sơn tiêm tú
Thử hữu đơn đề thế bất khan
Có nghĩa:
Tổ sơn khởi cao vút có thế hình kim ngoằn ngoèo
Long đến chỗ dân cư gấp khúc rồi uốn tròn
Các núi chiếu vào huyệt, sơn nhọn mà đẹp
Đây là thế Hữu đơn đề, người đời không dễ gặp
Có người giải thích rằng: Sơn đến uyển chuyển, cục thế chỉ có Hữu, bốn bên nhọn mà sáng đẹp, trong ngoài hình kim bao bọc, chúng tinh chiếu huyệt, gò hữu (Bạch Hổ) hồi hoàn, được như thế là thượng cách, đời đời phát phúc. Nếu như được đất này, võ có thể nắm binh quyền lớn. Lại có người nói: Sơn đến mà sinh cục, gò hữu hồi hoàn, tả kiên tác chứng, cho nên gọi là đơn đề, còn nói là cách Hữu tiên cung huyệt. Luận ra có hai sao Quan, Diệu nằm ở phương sinh tử. Trường sinh cung xuất ra Khôi tinh quan diệu, chủ yếu sinh ra các bậc quan lớn, nửa đời ắt sẽ phát, Mộc dục cung sinh ra Tài lộc quan diệu, chủ yếu xuất ra các bậc quan lớn; Quan đới cung xuất ra Tài hoa quan diệu, chủ yếu sinh ra các bậc quý nhân; Lâm quan cung sinh ra Chính sự quan diệu, chủ yếu làm quan hơn người; Đế vượng cung sinh ra Thông đạt quan diệu, chủ về làm quan cửu thiên, Suy cung sinh ra Liên đới quan diệu, chủ yếu là làm quan mà không có lộc, Bệnh cung sinh ra Chinh chiến quan diệu, chủ yếu làm quan phát lương, Tử cung sinh ra Vô khí quan diệu, chủ yếu làm quan nhưng không bền; Mộ cung sinh ra Lộc khố quan diệu, chủ yếu sinh ra các bậc quan thanh liêm.
20 - PHÚ THƯƠNG TỌA THỊ LIỆT TỨ CÁCH
Tổ khởi nhi lai vãng hữu cung
Hựu hoành đoạn tiết chí biên đông
Nhập yêu tác huyệt oa vi quý
Vạn khoảnh điền viên gia phú ông
Có nghĩa:
Tổ khởi lên rồi qua lại cung hữu
Tiếp tục chạy ngang một đoạn ngắn đến phía đông
Nhập vào đoạn thắt eo tạo thành huyệt oa thì rất quý
Được huyệt ấy thì ruộng vườn, nhà cửa giàu có vô cùng
Có người giải thích như sau: Long đi về bên phải, đến cung phía trái nhập vào đoạn thắt nút thì sinh huyệt; sơn thủy trùng trùng. Bạch hổ đến trước, tất sẽ sinh ra bậc phú gia. Được chân huyệt này thì phú quý không dứt. Nên gọi là cách Đại phú. Nếu tả hữu đan nhau như hàm răng, sinh các mỏm đá nhọn đứng riêng rẽ thành quan tinh chính hình, cung tinh này xuất hiện ngay cửa thành (nơi lập huyệt), thì sẽ thấy có nhiều tảng đá như hình mỏ chim nối tiếp nhau đắp đống. Xin xem hình và chú giải sẽ rõ:
Long đi đứt đoạn mà tả hữu lại quấn quýt như vòng lấy nhau, các núi hướng thẳng đứng mà chúng thủy hồi hoàn, được như thế thì phát đại phú, nên đây là cách Phú quý. Có bài thơ rằng:
Diện lập sơn đa liệt thị đình
Định tri thương mại hữu xưng danh
Tây giang dẫn nhập xu nam thị
Càn ấn lai lâm bắc thượng hành
Trực trực hậu đầu thành án thế
Hồn hồn Hổ phục hữu viên hình
Địa trục liệu nhiên giai tại mục
Hà tu tất sự vấn tiên sinh
Tức là:
Trước mặt sơn lập nhiều như hàng bày bán ngoài chợ (tức là trước mặt có nhiều loại núi khác nhau)
Cần biết rằng đất ấy buôn bán thì phát lớn
Sông phía tây chảy vào khu phía nam
Ấn Càn lại đi lên phía bắc
Thẳng tắp từ sau lên trước tạo thành án
Giấu kín như hình Hổ phục tròn
Trục đất ấy khuyên hãy sáng mắt mà xét
Thì không việc gì cần hỏi đến thầy địa lý
Có người lại luận cách này như sau: Lục kiến có thủy chầu vào, tất thảy gồm có Tam dương, Minh đường là Nội dương, Án nội là Trung dương, Án ngoại triều sơn là Ngoại dương. Lục kiến có thủy bao bọc phía tả làm thành Thiên kiến, bao bọc phía hữu làm thành Địa kiến, bai bọc phía trước làm thành Nhân kiến, lại còn gọi là Lộc kiến, Mã kiến, Thương kiến, tất cả đều chiếu vào phía trước huyệt nên gọi là Lục kiến.
21 - THẠCH THẠC CAO PHI TIÊU MÔN GIÁ QUÝ CÁCH
Tổ tông phát mạch khởi tinh phong
Chi cán phân hành lưỡng dực đồng
Hậu thủy đáo tiền minh án nội
Long lai Hổ bão nhập đường trung
Phong tàng, khí tụ giai chân huyệt
Phú quý, vinh hoa thử thạch sung
Có nghĩa:
Tổ tông phát mạch khởi lên từ những ngọn núi cao chót vót
Chi cán phân ra mà đi như hai cánh cần bằng nhau
Thủy ở phía sau đến phía trước làm sáng án nội
Long chạy qua, Hổ ôm ấp mà nhập vào bên trong Minh đường
Ẩn gió, tụ khí tất cả tạo nên chân huyệt
Phú quý, vinh hoa đều có ở những chỗ núi cao này cả
Cũng có người giải thích như sau: Sơn đến chỗ bản làng, chi cán phân ra mà đi; hình lớn mà thế cũng lớn, trong sáng, ngoài sáng; Long đến thì Hổ ôm ấp, muôn thủy đều trong xanh, Tiêu môn rộng rãi thì quý, đất ấy nổi danh về thi đỗ cao, sinh nhiều người giàu sang, đời xuất hiện anh hùng. Đấy có thể được coi là quý cách, so trong 21 đồ hình đã liệt thì đây cũng là cách tốt. Nếu đúng là chân huyệt mà đặt âm phần, hoặc xây nhà cửa đều đạt được đại phú đại quý. Nên gọi là phép đón minh sinh.
Trong 21 cách đã nêu thì chúng đều là cách tốt và có chung đặc điểm là thanh Long tích thủy, chi cán phân minh mà đi, đại hình, đại thế, nội ngoại trong lành, thấy như thế đều gọi là quý cách. Xin xem hình và chú giải sẽ rõ hơn.
Có thơ về cách này như sau:
Đại địa bình phô tự chưởng trung
Long xa Hổ huyệt thị trùng trùng
Thiên tinh sơn lập triêu lai bắc
Địa thủy lưu qua tẩu hướng đông
Long Hổ lưỡng ban kim huyệt thủy
Hậu tiền nội ngoại lập triều phong
Phong tàng khí tụ chân thành huyệt
Phú quý vinh hoa thử thạch sung
Huyệt tàng Long khuất cư thủy khẩu
Thần đồng động triệt ấm hương thôn
Thiên bàn quái thạch sinh ư thủy
Định hữu chân Long lý diện tàng.
Có nghĩa:
Đất lớn bày ra rõ như trong lòng bàn tay
Long xa, Hổ huyệt đúng là trùng trùng
Thiên tinh sơn đứng quay về hướng bắc
Địa thủy chảy về hướng đông
Long Hổ cả hai bày ra kim huyệt thủy
Trước sau, nội ngoại có núi chầu vào
Tàng phong tụ khí mà kết thành huyệt
Phú quý vinh hoa đều sinh ra ở những núi kì vĩ
Huyệt ẩn Long đi gấp khúc vào nơi thủy khẩu
Thần đồng thấu triệt mọi lẽ che chở cho xóm làng
Nghìn quái thạch quanh co sinh ở thủy
Đích thị có chân Long ẩn bên trong đó
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét