Thứ Sáu, 18 tháng 3, 2011

LUẬN VỀ HUNG CỤC, SÁT CỤC VÀ TỬ CỤC

Nguyễn Văn Chiến


1 – TRÙNG DƯƠNG TỬ TUYỆT CÁCH
Trùng dương thử cách bất lao khan
Huyền vũ cao cao cấp cấp san
Nhược ngộ táng chi đa bại tuyệt
Gia tài bất tất yếu tài quan
Có nghĩa:
Trùng dương là cách xem không mấy khó
Huyền vũ thì cao mà núi đi gấp gáp
Nếu táng huyệt nhầm vào nơi đó thì sẽ bại tuyệt
Gia tài tất bị chôn vùi
Cách này có thể hiểu cụ thể như sau: Cách Trùng dương, có thể nói là sơn đầu ở phía sau, cứ cao lên một chút thì thủy lại cao lên, huyệt kết từ ba đốt đến 10 đốt, tất cả cứ tầng tầng mà đột khởi, không có Long bác hoãn thuận khởi nên gọi đó là Trùng dương. Cách như thế này thì không thể táng được, hoặc ngộ nhỡ táng nhầm nơi đó, sinh nhiều chuyện tử tuyệt, vì thế khuyên mọi người nên cẩn thận với nó. Có thơ răn rằng:
Địa hình tuyệt tự thiểu nhân tri
Bắc lộ tây trì định bất nghi
Long đê phản ngoại nam vô tử
Hổ đoạn hình tha nữ bất nhi
Có nghĩa:
Địa hình tuyệt tự ít người biết
Đường phía bắc, ao phía tây phân định nên khỏi nghi ngờ
Long thì thấp mà phản ra bên ngoài làm con trai tuyệt tự
Hổ đứt từng khúc làm con gái không con
2 – TRÙNG DƯƠNG TỬ TUYỆT CÁCH
Trùng dương thử địa bất khả vi
Hậu sơn nhất cấp hựu nhất đê
Nhược ngộ táng chi đa bất lợi
Thời sư mạc nãi tác tâm ki
Có nghĩa:
Trùng dương đất ấy không thể làm
Hậu sơn một đoạn thấp, một đoạn cao
Ngộ nhỡ táng nhầm sinh nhiều điều bất lợi
Thời các thầy địa lý cần phải lưu tâm
Cách này có thể hiểu như sau: Cách Trùng dương, có thể nói là sơn đầu ở phía sau, cứ cao lên một chút thì thủy từ trong huyệt nổi lên mà đi ra sau đầu. Vì thế gọi là Thủy phá đầu mà đi nên gọi là cách Ngưỡng ngõa, từ trong huyệt đến hậu đầu có từ ba đốt đến 10 đốt, tất cả đều thấp mà không đột khởi, nên gọi đó là cách Trùng dương. Ngộ nhỡ táng nhầm nơi này thì cuối cùng cũng sinh ra bất lợi; thủy khẩu đối chọi và thấp, không sinh kì thạch nên sẽ bần cùng. Nếu buông thả, uốn lượn thì con gái sẽ bị phá bại, một đời chỉ thấy có điều hung mà thôi.
3 - ĐẤU MẠCH SÁT KHÍ CHI ĐỒ
Trực lai trực thụ thế vi nan
Đấu mạch táng chi thị bất an
Thử địa trùng tang sinh bách bệnh
Thời sư thức bĩ nhãn lao khan
Có nghĩa:
Mạch đến thẳng mà ngay đơ khi kết huyệt thì cuộc sống khó khăn
Đấy là Đấu mạch, táng xuống đó thì sẽ không yên ổn
Đất ấy sinh trùng tang và bách bệnh
Thời nay các thầy địa lý cũng khó mà nhìn nhận
Lại có cách giải thích như sau: Mạch xuất phát từ cung Huyền vũ mà xông thẳng đến trông thô phác, không có đột khởi hay phục Long Bác hoãn mà nhập huyệt. Cho nên mới gọi là đến thẳng, nhận thẳng; như Long ở Càn, Hợi đến giao kết huyệt, lại tọa Tốn, hướng Tị nên gọi là Đấu mạch sát khí, nên không thể táng ở đó. Cho nên còn gọi là Mai hoa song kim nhị sát, chú ý không được phạm vào. Do vậy, Long lai, hướng, can, chi tất cả đều có thể phải kị nó. Cho nên có thơ rằng:
Thủy khuyết môn tiền hạ thạch giang
Bệnh phùng hạ lị tử khê bàng
Sơn cao áp diện sinh thần mục
Thủy tiết biên thân tẩu dị hương
Bắc khuyết phong suy đa bệnh khổ
Nam phương hỏa tử hữu tai ương
Nhược đắc thử môn như hữu thử
Tử tôn hà hoạn hữu ôn hoàng
Có nghĩa:
Thủy khuyết trước cửa huyệt mà phía dưới có thạch giang
Bệnh gặp cảnh đau bởi có khe nước chết kề bên
Núi cao áp vào mặt mà sinh bệnh ở môi mắt
Nước chảy bên thân rồi trôi đi nơi khác
Hướng bắc khuyết hãm, gió thổi thì gặp nhiều bệnh tật khổ sở
Phương nam hỏa chết gặp lắm tai ương
Nếu như táng vào nơi như vừa kể
Thì con cháu làm sao tránh khỏi hoạn nạn, tật bệnh.
4 – TUYỆT MỆNH ĐỒ
Bất phân Long Hổ sự nan khan
Thử địa thô tề hữu nhị ban
Nhược ngộ táng chi tai sấn chí
Bất tu trứ mục uổng lao khan
Có nghĩa:
Không phân Long Hổ gặp việc khó khăn
Đất này thô mà ngay đơ có hai thứ bày ra
Ngộ nhỡ táng vào chỗ đó thì tai ương sẽ đến
Không luyện cho sáng mắt thì thật uổng công xem.
Có cách giải thích như sau: Chủ sơn cùng với huyệt và Long Hổ đều ngang nhau, không phân cao thấp, gián đoạn mà cùng một hạng. Vị chi Long Hổ cùng chủ sơn đều mạnh như nhau, không phân cách cục, nên không có phép để phân chia rõ ràng. Mà ngộ nhỡ gặp nó, táng mộ xuống thì sinh lắm việc tán bại. Cách này khuyên mọi người chú ý. Trong trung tâm mạch (tức vị trí Mão), chạy đến cung Giáp thì con trai sẽ gặp phong bệnh, nếu nhập vào cung Tốn thì con gái cũng có chứng phong bệnh. Do đó có thơ dạy rằng:
Thủy bức tiền môn bất khả khan
Thô hiềm ngũ nhập tuế nhi hoàn
Long trường Hổ đoản nam thương túc
Hổ súc, Long cao nữ chiết uyên
Tử vô tùy phụ nan thành phẩm
Phụ bất tòng phu tất dã quan
Hữu địa nhược quan y thị thử
Tiên sinh hà tất chuyển La bàn
Có nghĩa:
Thủy chảy gấp qua trước cửa huyệt nên khó xem
Chảy năm canh, suốt mùa không quay lại
Long mà dài, Hổ mà ngắn con trai gãy chân
Hổ mà thẳng, Long mà cao con gái gãy tay
Con không nghe lời cha nên khó có phẩm giá
Vợ chẳng theo chồng tất sẽ chết sớm
Có đất thế này mà xem được kĩ như thế
Thì thầy địa lý làm gì phải đặt La bàn.
5- SÁT MẠCH ĐỒ
Đoạn Long chi thủ bất kham thiên
Tuy hữu chân hình bất khả ngôn
Đoạn mạch thổ tiêu nhân thụ sát
Quý sơn sát mạch địa nan toàn
Có nghĩa:
Đoạn đầu Long bị đứt không thành đốt
Tuy có chân hình nhưng không thể tả được
Mạch đứt thổ tiêu con người sẽ bị sát
Quý sơn nhưng gặp sát mạch đất đấy cũng khó an toàn
Có người lại nói: Long đến nhập huyệt hoặc bị người làm cho cong vẹo và bị hãm, hoặc bị nước lớn phá hỏng, Long bị đứt ở phía sau, tuy có huyệt quý Long, nhưng cũng không thể táng được. Ví như táng vào chỗ đó, nếu có phát cũng không được lâu dài, khuyên mọi người nên cẩn thận. Có bài thơ khuyên rằng:
Tứ vi hữu lộ tẩu như xà
Thế tự tù đồ ngục tất gia
Ngũ quỷ vũ thương binh trận tử
Nhập lưu cấp án tọa sinh ba
Có nghĩa:
Bốn bên có đường vây quanh uốn éo như rắn bò
Hình thế trông như chữ tù, nên hình ngục hẳn sẽ vướng vào
Ngũ quỷ múa giáo làm cho binh chết trận
Nhập vào chảy gấp qua án tiền sinh ra sông lớn.
Huyệt này có thể hiểu là: Dù trong đời con người ai cũng muốn tránh việc tù ngục, nhưng thủy ở trước Minh đường này tốt ra sao? Nếu bốn bên có đường tạo thành chữ tỉnh (), thì người ta gọi thế đó là Thiên ngục (ngục của trời), chủ về bị tai ách về tù ngục, tra khảo, bốn phương mà nhọn thì phạm vào đao binh và chết trận. Nếu nước chảy hình chữ bát () thì sẽ bị phạm vào tù tội mà chết.
6 – ĐÊ THẤP TUYỆT HUYỆT ĐỒ
Khuyến quân Tuyệt huyệt bất lao hạ
Tất sử nhân đinh bất an dã
Thời sư loạn tác ngộ đa ban
Táng giả nhân đinh chung thụ sấn
Có nghĩa:
Khuyên anh Tuyệt huyệt chớ đặt mộ xuống đó
Tất sẽ khiến người trong nhà bất an
Nếu thầy địa lý ngộ nhỡ làm loạn đặt vào
Táng xuống đó thì người trong nhà cuối cùng sẽ gặp tai họa
Có cách giải thích như sau: Mạch đến thì loạn, huyệt thì ở nơi thấp kém, như thế không thể táng được, khí lạnh đâm vào áo quan. Táng vào huyệt như thế này, vong tán bất an, con cháu gặp tật bệnh, đó là Tuyệt địa nên cần xem kĩ. Giả như thế cục hữu tình, mạch lại đi quá gần huyệt, khí sắc của đất thấy sự sinh sôi hẳn huyệt nằm nơi thấp, huyệt này không được có bùn lầy. Thấy như thế cần xét mạch đến tận cùng, để đề phòng tuyệt khí, địa thần (môi đất) nhỏ nhẹ, chắc có sự sinh sôi. Nhưng nếu như thấp kém mà trông hữu tình, hình thế có vẻ rất đẹp nhưng không có bùn lầy thì cũng có thể xét huyệt đó mà táng. Nên có thơ dạy rằng:
Lưỡng biên Long Hổ dấu như trùy
Nhân mệnh hình tai bất định kì
Khuyết tý định tri ly táng mệnh
Tàng đầu tất thị họa giang thi
Phương ấn tiêm trường nhân tất dũ
Viên hình khoan hậu tử tôn phì
Thủy bức đường tiền xâm thượng tọa
Tao phùng khái xuyễn mệnh nan y
Có nghĩa:
Hai bên Long Hổ đánh nhau như vồ đập
Nhân mệnh sẽ gặp hình ngục, tai họa không yên
Khuyết tay (khuyết Hổ) cần biết kĩ khi táng mộ
Đầu mà ẩn kín thì chắc chắn họa như khiêng xác chết
Phương có ấn mà nhọn dài thì người tất sẽ lo lắng
Nếu hình mà tròn, trông khoan hậu thì con cháu phát đạt
Thủy chảy gấp qua trước Minh đường xâm phạm đến chỗ cao
Thì bỗng nhiên người gặp bệnh ho, xuyễn khó chữa
7 – HOÀNH SÁT ĐỒ
Khán Long chi huyệt tế thôi tường
Táng thử nhân đa thụ họa ương
Tật bệnh yêu vong hà đắc hảo
Quý điền dung vệ sử nhân thương
Có nghĩa:
Thấy huyệt của Long nhỏ mà lại nổi lên rất dài
Táng xuống đó thì người sẽ gặp nhiều điềm tai ương
Tật bệnh sẽ đến như thế thì tốt sao được?
Dù ruộng quý mà dùng huyệt này cũng khiến người bị tổn thương
Có cách giải thích như sau: Sơn từ bên phải mà lại, theo bên phải mà nhập thủ chắc chắn sẽ đi ngang mà nhận khí ngang; nếu có sơn và có án tiền, có Long, có Hổ, huyệt cư ở chỗ Long kiên nên không thể táng. Nếu như miễn cưỡng táng vào chỗ đó, chắc chắn sẽ đau buồn, nếu lỡ táng rồi, thì sự mất mát sẽ đến từ đó, tật bệnh, tai họa khó tránh. Vì vậy khuyên mọi người cẩn thận khi xem xét huyệt này. Nếu như tả hữu tự nhiên như đè lên cục, không có bùn lầy thì sách có dạy rằng:
Đè lên Long thì hẳn huyệt sẽ sinh ở vai Long, nhiều con, nhiều cháu quý nhưng không tệ.
Xét trên 7 đồ hình vừa giới thiệu đều là tiện cách, tất cả là giả huyệt, hoặc làm dương phần, hoặc làm âm trạch, thì đều rơi vào những vị trí của cách táng tuyệt.Vị chi là phép của việc dẫn cái chết. Làm thầy địa lý thật khó, khi thương xót người thì phải dùng hết tinh lực xem xét để lấy cái sinh đuổi hết cái tử, chọn lấy nơi đẹp mà dùng. Nay viết ra đây sự tinh yếu của sáu tự, chắc hẳn địa thế cũng không vượt qua những việc này. Vả lại, lấy khí cục làm đầu, địa mạch xét sau, đấy là cái lý của việc đoán xét. Nếu như đi ra nơi đồng hoang chọn huyệt; thấy huyệt rồi đi khoảng bốn, năm bước mà không thấy khí sắc phát ra từ nơi sở tại, thì phải coi nơi đó đã chọn sai, thấy cái chân ấy chỉ là cái giả, thì phải theo sự chỉ dẫn của Thiên môn, địa hộ, bùn lầy ở trong cục, phàm khi tả mà thấy rắc rối thì không thể là chính quý được, cho nên hết sức cẩn thận.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét